Bài thơ "Núi Hồng sông Lam" của nhà thơ Xuân Hoài được viết năm 1991, thời điểm tái lập tỉnh Hà Tĩnh. 30 năm trôi qua,, bài thơ đi cùng năm tháng, đi cùng tâm hồn người Hà Tĩnh và được cất lên thành giai điệu bài hát nổi tiếng của người Hà Tĩnh.
BÀI THƠ NÚI HỒNG SÔNG LAM, SỰ TÀI HOA CỦA NGÔN TỪ
Có một điều đặc biệt, hầu như trên mọi miền đất nước ta, mỗi vùng đất, xứ sở đều hiện diện cặp núi/sông tiêu biểu, làm nên hồn cốt đất đai, con người xứ đó. Với Hà Tĩnh nói riêng, xứ Nghệ nói chung, núi Hồng - sông Lam, không chỉ là danh thắng nức tiếng từ xưa, được khắc vào đỉnh thờ của đất nước mà còn gắn kết chặt chẽ với nhau làm nên biểu tượng về phong thổ, linh khí núi sông trong đời sống văn hóa, tinh thần của con người nơi đây. Một dải Lam Hồng chứa đựng biết bao huyền sử, trầm tích văn hóa, kiến tạo nên xóm làng bờ bãi, nếp ăn ở, truyền thống lao động sản xuất, hun đúc sản sinh ra anh hùng tuấn kiệt làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Núi Hồng, sông Lam cũng là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Ở mọi thời đại, đều có những bài thơ hay, những nhà thơ nổi tiếng viết về núi sông ở xứ này. Sông Lam, núi Hồng được cảm nhận, ngợi ca ở vẻ đẹp, sự hùng vĩ của thiên nhiên, ở bóng dáng của những huyền sử, hoặc gắn với cảm khái về khí chất của con người gắn với vùng phong thổ đặc biệt… Với nhà thơ Xuân Hoài, một người am hiểu và gắn bó sâu nặng với quê hương Hà Tĩnh, trong tâm thức thơ của ông dường như luôn sẵn có một “cái tứ lớn” về núi Hồng sông Lam và mảnh đất địa linh nhân kiệt này, chỉ chờ giây phút “xuất thần”, thăng hoa của cảm xúc để được thoát thai, cất cánh bằng câu từ mà thôi. Có thể nói như vậy bởi vẻ đẹp và “sức tải lớn” của một bài thơ ngắn gọn ông viết về sông Lam, Hồng Lĩnh. “Núi Hồng sông Lam”, bài thơ chỉ có 12 câu thơ ngũ ngôn nhưng ý tình chan chứa…
Đặt ra một giả thiết trái ngược, phủ nhận lại một chân lý bất biến, một điều gì đó đã trở nên tất yếu và hiển nhiên nhằm khẳng định tiếp về sự tất yếu và chân lý đó, là một lối tư duy thông thường, khá phổ biến, trong thơ nó cũng được vận dụng khá nhiều và hiệu quả trong việc nhấn mạnh vấn đề tác giả đã có chủ ý. Bằng cách này, Xuân Hoài đã triển khai được “tứ thơ lớn” mà ông vẫn ấp ủ, hoài thai trong tâm trí một cách thuận lợi. Những câu thơ được dẫn đi một cách tự nhiên, nhẹ nhõm. Và những suy cảm, chiêm nghiệm, cứ thế, nhẹ nhàng đi vào tâm trí của mọi người:
Nếu không có sông Lam
Núi Hồng buồn biết mấy
Núi Hồng không đứng đấy
Sông Lam trong cũng thừa.
Núi Hồng/ sông Lam tự bao đời đã hình thành ở đó. Thiên nhiên vô tình hay hữu ý. Vô tình hay hữu ý thì sông núi cũng đã hiện diện như một vẻ đẹp không thể tách rời, tô điểm thiên nhiên, gắn với đời sống con người, đi vào đời sống tâm linh, tinh thần, trở thành một phần tâm hồn của con người xứ sở. Nếu không có sông Lam/ Núi Hồng buồn biết mấy…, giả thiết và lối tư duy rất thơ đó đã nói lên được hết thảy những cảm nhận và thấm thía của con người xứ Nghệ về vẻ đẹp sông núi xứ mình, về sự gắn kết, hòa điệu và cân xứng mà thiên nhiên đã tạo tác, ban tặng cho vùng đất.
Những khúc hát đò đưa
Thả neo vào quá khứ
Bao buồn vui lịch sử
Nghĩa tình ôi chứa chan…
Với thể thơ 5 chữ, lại áp dụng cho một tứ thơ, một đề tài mang “tầm sử thi” (bao quát tầm vóc núi sông, gắn với truyền thống văn hóa, lịch sử) như Núi Hồng/ Lam, nhà thơ phải có một khả năng vận dụng ngôn từ với sức tải ngữ nghĩa và sức biểu cảm tối đa. Nói cách khác phải có độ nhạy cảm cao trong những mối liên tưởng để đạt đến “ý tại ngôn ngoại”. Câu thơ sắc sảo và tài hoa của Xuân Hoài, đã diễn đạt những điều lớn lao đó: “Những khúc hát đò đưa/ Thả neo vào quá khứ”. Hiện tại và quá khứ lịch sử được làm sống dậy từ ký ức một dòng sông. Hào hùng và bi thương, “bao buồn vui lịch sử” được nối kết với hiện tại từ khúc hát đò đưa trên sông “thả neo” vào rộng dài quá khứ. Nếu không có vốn hiểu biết sâu rộng của một nhà giáo, một người hoạt động văn hóa, văn nghệ cộng với một hồn thơ tài hoa, tinh tế, Xuân Hoài đã không thể triển khai. “xử lý” được “nội dung sử thi” khá đồ sộ chỉ bằng vào khổ thơ ngắn. Xuân Hoài trước hết là nhà thơ của quê hương xứ sở. Lòng tự hào, yêu mến mảnh đất địa linh nhân kiệt, mảnh đất của ân nghĩa thủy chung luôn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong thơ ông. Tình yêu và sự am hiểu đủ lớn, đủ sâu rộng để kết đọng lại bằng những câu chữ, hình ảnh cô đọng và hàm súc, lời ít mà ý nhiều .
Núi Hồng và sông Lam…
Để muôn đời sừng sững
Núi cao cho dáng đứng
Sông dài cho bước đi
Sông, núi muôn đời vẫn vậy. Qua bao thác ghềnh, dòng sông lặng lẽ miệt mài chảy trôi về biển cả. Núi vẫn trùng điệp uy nghi giữa đất trời. Núi cao, sông dài không chỉ là hình ảnh thực, là thiên nhiên đơn thuần nữa mà trở thành một biểu trưng đầy ý nghĩa, về con người và vùng đất nơi đây: Núi cao cho dáng đứng/ Sông dài cho bước đi. Tứ thơ cất cánh bằng vào một liên tưởng hoán dụ thần tình. Vẻ đẹp, sức nặng của bài thơ đọng lại ở hai câu kết này - hình sông thế núi cũng là biểu trưng của một tư thế lớn lao, một cảm nhận đầy khoáng đạt về con người và vùng đất. Từ xưa đến nay, văn nhân và các nhà viết sử đều khá thống nhất trong nhận định chung về núi Hồng/sông Lam, không chỉ là thắng cảnh mà còn biểu trưng cho phong thổ văn vật, linh khí thiên nhiên, khí chất con người. Cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ Xuân Hoài ở đây cũng gần với suy nghĩ sâu sắc của nhà nghiên cứu Võ Hồng Huy khi viết về cặp núi sông này: “Hễ nhắc đến con người Hồng Lam, mỗi người chúng ta cảm thấy như có gì thiêng liêng thôi thúc, nâng đỡ mình lên để phấn đấu đi tới, và cũng không khỏi thẹn thùng ray rứt, khi tự thấy những gì ẩn núp sâu kín trong lòng mình, thiếu lành mạnh, trong sáng, nhỏ mọn, riêng tư…”. Đó chính là cái bước đi dài rộng, cái thế đứng hiên ngang của Hồng Lĩnh, Lam giang mà nhà thơ Xuân Hoài đã cảm nhận.
Bài thơ “Núi Hồng sông Lam” được nhà thơ Xuân Hoài viết tháng 8/1991, tỉnh Hà Tĩnh được tái lập, một thời điểm có ý nghĩa. Bài thơ cũng được cất cánh một lần nữa khi nhạc sỹ Quốc Việt phổ nhạc và trở thành ca khúc nổi tiếng. Bài thơ – khúc nhạc này đã được cất lên mở màn cho Lễ khai mạc kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh Hà Tĩnh. 30 năm bài thơ ra đời, 30 năm đã trôi qua kể từ ngày tái lập tỉnh, bài thơ đi cùng rộng dài quê hương, xứ sở.
Nguyễn Thị Nguyệt