22-07-2019 - 10:22

Nhà văn Thy Lan viết về "Cấu trúc thơ Lê Thành Nghị"

Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu bài viết "Cấu trúc thơ Lê Thành Nghị" của Nhà văn Thy Lan (Tổng biên tập Tạp chí Xứ Thanh) rút ra từ tập sách " Những cánh đồng mang gương mặt người".

 

Tôi biết Lê Thành Nghị và trân trọng anh với tư cách một nhà Lý luận phê bình văn học. Đọc các bài viết của anh tôi cảm nhận đó không chỉ là ngòi bút “sắc lạnh giác quan”, mà đó còn là những tình cảm chân thành, sẻ chia nhiều góc độ. Chính sự đam mê nghiên cứu và thái độ ứng xử với những vấn đề nhỏ nhất của văn chương đã truyền lửa cho thế hệ trẻ chúng tôi niềm tin về sự vững bền của giá trị thực ở đời rằng “hữu xạ tự nhiên hương” và “đã là ngọc thì có khả năng tự phát sáng”. Tác phẩm văn chương vốn dĩ đời thường mà khác thường là vì thế chăng?

Nhà thơ Lê Thành Nghị đọc thơ nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Xuân Diệu tại Can Lộc

Tình cờ đọc tập thơ “Sông trôi không lời”*, tôi ngạc nhiên bởi chất thi sĩ trong anh lại “nhập thế” đến lạ. Được đọc kỹ hai tập thơ “Mùa không gió” và“Mưa trong thành phố” **, tôi nhận ra sự nhất quán nội dung và hình thức tạo nên phong cách thơ Lê Thành Nghị. Mới hay sự thâm trầm, lặng lẽ trong anh đã làm nên sự “đằm” trong cảm xúc, sự lắng đọng của chiều sâu triết lý, sự lan tỏa, dồn nén, hội tụ…của những ý thơ. Thơ anh còn toát lên điều gì đó rất “thương mến” hay mang nặng “nỗi niềm” miền Trung và vì vậy làm nên hồn cốt, hương vị riêng: “Miền Trung quê anh cát bay trong sữa mẹ”, “Có miền đất im lìm đứng lên/ Tự mình xây núi lớn” (Hồng Lĩnh). 

Hay trong bài Rượu quê anh viết:  

Cất từ nước sông Nghèn

Từ lửa rú Hồng sau trận cháy

Hạt gạo năm nắng mười mưa đọng lại

Hóa thành men!.

Cái “men” rượu quê ấy có lẽ không thể “say” lây sang người lữ thứ mà tạo sự đồng điệu, nếu thiếu đi những câu thơ như ảo giác mà chân thật: 

Núi cao say đứng

Núi thấp say nằm

Sỏi đá và mặt trời cùng nhòe dưới suối

Vạt lau mùa không gió thổi

Ngả nghiêng trong trăng

 

Ta từng nghe Tản Đà có câu thơ đầy chất ngông thi sĩ nói về sự “say”: “Đất say đất cũng lăn quay/ Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười? (Lại say). Câu thơ từ thời ông sống đến hôm nay vẫn “sinh động”. Tản Đà còn phác họa chân dung mình “quê hương thì có, cửa nhà thì không”. Vậy nên “nước non”, “non nước” nghĩa tình “ám ảnh” làm nên cái ngông, cái lạ, cái đa cảm cho thơ. Quê hương với mỗi nhà thơ đắm đuối, da diết và bền bỉ trong tâm hồn mà cấu thành vóc dáng thi nhân, hồn cốt dân tộc.

Lê Thành Nghị cũng tựa vào quê hương như tựa vào gió trời mà thả dây diều tình cảm yêu, thương, nhớ, tiếc. Cái đáng ghi nhận ở thơ anh là người viết biết tạo đà để bật lên ở câu kết, chốt được điều anh muốn nói:

Ôi quê hương!

Chỉ có thể quỳ trước quê hương

Như quỳ trước những gì tinh khiết nhất!

(Rượu quê)

Quê hương “tinh khiết”, cái cách anh gọi trìu mến, chung đấy mà cũng riêng tư đấy, hẳn là chắt ra từ “lửa”, “nước”, “hạt gạo”, “năm nắng mười mưa”, “đỉnh núi mờ mây”, “dòng sông trôi tím”, “vạt lau ngả nghiêng”  khiến ta cũng “say đứng”, “say nằm”. Nhưng “men” bài thơ mang lại, hình như không hẳn thế. Cái nhân bản, nhân văn, nhân ái lại toát ra từ câu thơ cuối với hình tượng “quỳ”. Quỳ mà vượt lên những cái thông thường. Rồi một chút “ngả nghiêng”, một chút nồng ấm làm nhân lên cái mơ mộng, nhớ nhung, khắc sâu, nhắc nhớ. Một chút vi vô mà hiển hiện “chân dung” năm tháng, đời người trong sự co thắt, giản nở của thời gian. 

 

Điều làm tôi thú vị là thơ anh không làm dáng, làm điệu, làm từ mà tình ý cứ như tơ mành “giăng mắc” trên trang giấy: 

 

Sau chùm lá miên man lời ước hẹn

Miên man mưa, biển cũng chẳng hề đầy!

 

Nhưng chiều nay biển hình như thêm mặn

Cuối chân trời không một vệt chim bay

 

Nhưng chiều nay biển mới là thật biển

Mênh mang buồn chia sớt cho ai?”

(Chiều nay biển)

 

Cái cô đơn, vô cùng, vô tận của biển, của lòng người được nhà thơ  nói ra lời “chẳng hề đầy”, ấy thế mà cứ “đầy” ngợp , nói “miên man” mà lại ám ảnh lạ lùng. Không có câu thơ nào nói đến nước mắt mà đọc lên thấy mắt “cay”, không nói một từ  biệt ly mà sao mênh mang màu ly biệt. Một sự nín chịu đến “căng” cảm xúc đẩy lên cao hơn của sự trách hờn là sự “lặng thầm”, khao khát, thiết tha mà làm nên cái tôi thi sĩ đa cảm, đa sầu, yếu đuối. Xưa nay viết về sự dở dang trong tình yêu, nhiều người viết hay. Vượt qua được cửa ải của sự “lặp”, sự “nhàm” là không dễ chút nào. Lê Thành Nghị luôn tìm được “tứ” cho thơ để phát lộ, dẫn dắt những suy cảm tuôn trào hay kết đọng. Ứng với những cách xử lý khác nhau về “tứ”, thơ anh cho ta những giọng điệu tương thích. Ta thấy bài thơ “Hoa thuở ban đầu” là đặc trưng cho một kiểu giọng: 

Loài hoa như nửa mặt trăng non, như nắng mấp mé thềm

Như gió trở đầu mùa, mây ngang cuối hạ

Cái vô hạn vững bền bỗng dưng tan vỡ

Cái mong manh vĩnh cửu cũng từ… hoa.

 

Đặc điểm thơ Lê Thành Nghị không dụng vần nên yếu tố tạo nên sự chặt chẽ thơ anh là ý và nhạc điệu. Những câu thơ trên là kiểu giọng giải bầy, ưu tư. Kiểu này tính triết lý không nhiều mà thiên về sự xúc động trước hiện thực đời sống hay những hoài niệm của bản thân tác giả. Lật tìm ký ức dường như là cảm hứng thường trực trong thơ anh có lẽ vì anh luôn “nhớ khôn nguôi hoa thuở ban đầu”. Nhưng sở dĩ  thơ anh “chạm” đến tâm tư nhiều người đọc vì anh đánh thức được những kỷ niệm thầm kín bằng hình tượng gợi cảm. Chỉ một bông hoa, chiếc lá, ánh trăng… mà len lỏi vào những mạch ngầm cảm xúc, làm sống động giác quan, khơi gợi, chiêm nghiệm và đồng cảm của bạn đọc. Thể hiện rõ điều này, xin đọc các bài: Mùa hoàng lan, Chợ huyện, Một mình, Hoa loa kèn, Cha tôi, Tàu về thảo nguyên, Muộn màng, Mùa Hoa xoan, Bếp lửa, Matxcơva- mùa tuyết đang tan, Trước đài hóa thân Hoàn vũ…       

     Thơ dễ làm nhưng khó hay. Cái lẽ ấy vận vào thơ như định mệnh. Ai có “căn” với thơ thì trốn cũng không được. Cái sự ghét, sự yêu khi người ta dính vào thơ thì như bùa ngải mà mê hoặc, đa đoan kiếp người không gỡ được. Đó là khi cảm xúc thơ thăng hoa vượt lên lẽ thường, tạo ra sự khác biệt, ngạo nghễ, cô đơn… Hình hài của bài thơ cũng như một cơ thể. Có điều con người sinh học thông thường đo được bằng máy “siêu âm”, “chụp cắt lớp”… nhưng con người trong thơ thì chỉ cảm nhận được bằng giác quan. Thơ cao hơn cái lẽ thường vì thơ làm được cái việc là dẫn người đọc vào thế giới bao gồm cả nhận thức hữu thức và nhận thức vô thức. Khi yếu tố vô thức xuất hiện trên nền tảng của yếu tố hữu thức thì sức liên tưởng xa hơn, sâu hơn rất nhiều. Yếu tố này chỉ có ở những nhà thơ tài hoa. Ta gặp ở thơ Lê Thành Nghị những câu thơ như thế: 

Vẫn còn mơ màng sông

Dù đã vô hồi tiếng gõ thuyền đánh cá

Đêm buông lưới bốn bề

Và gió…

Ta sẽ mắc vào đâu

Những mắt lưới muộn phiền

(Vô thức tiếng chim đêm). 

 

Phải có một trái tim “ đa cảm” lắm mới cảm được tiếng chim như vọng về những “mắt lưới muộn phiền”. Để rồi đi đến khái quát về biến động của dòng đời “Nào ai còn nhớ/Những dặm đường đã quaNào ai kịp cấtNhững tiếng chim đã mất” nên đau đáu, xót xa trước cái sự vô cảm, vô tình. Liên kết ngầm trong thơ anh được tạo ra bởi những đan chéo, xen kẽ, bởi những tương tác của hai tầng vô thức và hữu thức. Đây cũng là đặc điểm cấu trúc thơ Lê Thành Nghị. Các bài thơ tiêu biểu: Tây Hồ đêm, Chuyện nhân thế, Hoa gạo, Cô gái tổng đài, Trong cỏ, Rượu quê, Mẹ trên cao, Không đề 1.

​Anh viết:

Đã hóa thân làm lửa

Cháy hết mình mới thôi

Dù trong mưa, trong gió.

(Hoa gạo)

 

Thời gian lên men thầm lặng trong bình

Ý chí sủi tăm đáy chén!

(Không đề 1)

 

Nếu giọng thơ giải bầy, ưu tư khiến con thuyền thơ anh chở nặng những rung động thì giọng thơ triết lý lại uyển chuyển, linh hoạt với những chiêm nghiệm về đời người, thân phận. Tâm hồn nhà thơ như đi lại uyển chuyển giữa hai bờ xúc cảm và triết lý. Hầu hết các bài thơ anh viết đều thấm đẫm nỗi đời, như : Những câu hỏi thường ngày,Trong suốt sông Kỳ Cùng,Triết lý của hoa, Vội vàng lên với chứ, Hoa rừng Cúc Phương, Dự  định, Thi đàn, Không đề 2, Gửi biển, Thi sỹ, Lời thề…

 

Hãy nghe anh chia sẻ:

 

Anh vẫn biết, mềm không riêng gì nước

Thế nghĩa là núi cũng phải trôi thôi

Thế nghĩa là sẽ cùng trời cuối đất

Sẽ theo sông cho đến tận kỳ cùng” 

(Trong suốt sông Kỳ Cùng)

Hay:

 

Hoa đâu chỉ đẹp và thơm

Chỗ đông bàn chân tới!

(Hoa rừng Cúc Phương)

 

Cũng giọng thơ trên, anh viết về Nam Cao:

 

Có ai yêu cuộc đời như ông

Cái kiểu yêu nhọc nhằn lấm láp…

Ráng chịu tìm đức tin

Giữ để không bước thêm một bước

Xuống bùn!

 

Giới hạn giữa ánh sáng và bóng đêm, Phật và Quỷ sa tăng, cao cả, thấp hèn vô cùng hay gang tấc? Nam Cao đã dựng lại bối cảnh xã hội “hỗn chiến” mà đau lòng nhưng Lê Thành Nghị cũng đồng cảm và nhận ra cuộc hỗn chiến ấy “còn diễn biến đến bao giờ”. “Nhân vật nháo nhâng” của  Nam Cao vẫn tồn tại hôm nay để văn chương luôn phải nhập cuộc. Tính hiện đại của bài thơ nằm ở hai câu kết:

 

Loạt súng!

Với ông điều đó chẳng bất ngờ! 

                              (Nam Cao)

 

Nam Cao dự cảm về thời cuộc, dự cảm về đời mình, nhưng cao hơn hết điều mà nhà thơ muốn nói là tính chiến đấu trong văn chương đời nào cũng phải có, đối diện với hiện thực là cách nhà văn “yêu cuộc đời” dù nhọc nhằn, ngang trái, nhiễu nhương…Lê Thành Nghị viết về Nam Cao chỉ mấy trang thơ mà tác phẩm và thời đại của Nam Cao “sống” dậy cùng những  xót xa, tự trào, chiêm nghiệm, dự báo…. Kết cấu thơ tự sự đan xen trữ tình, thơ anh mở rộng biên độ tiếp nhận và xâu chuỗi, cô kết khiến tôi cảm nhận rõ cách anh mở hay kết thơ không lẫn với nhà thơ nào. Và thơ anh không dừng lại sau dấu chấm kết bài. Cấu trúc mở là đặc điểm thơ anh.

Nhà thơ Thy Lan tại Hội thảo Tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung được tổ chức tại Hà Tĩnh

Còn một kiểu cấu trúc thơ nữa mà Lê Thành Nghị sử dụng là thơ văn xuôi. Đây là kiểu cấu trúc thơ hiện đại, cách tân cả hình thức biểu hiện lẫn tư duy nghệ thuật. Tuy nhiên nếu viết không khéo câu chữ có thể trở nên loằng ngoằng, rối rắm. Vậy mà thơ văn xuôi của anh thật hay, giàu xúc cảm, quyến rũ. Bao ký ức tuổi học trò về cùng cơn mưa và “ một vòm xanh biếc lá me xanh” hay những “trận mưa đêm” về cùng “mối tình đầu”, cảm thấy như  “vẫn còn đây vết mực tím lặng thầm”. Nhà thơ viết thật cảm động về ký ức chiến trường: 

Mưa vẫn thế chẳng có gì khác lạ. 

Nghìn năm rồi vẫn xuống từ mây. 

Ta một thời trẻ trung đi cầm súng. 

Qua bao những trận sốt dài. 

Chôn đồng đội trước một vòm núi dựng.

Mùa mưa rừng lo núi sạt, đá trôi. 

Những đồng đội nhận về mình cái chết, biến mình thành hư vô…

 

Niềm tiếc thương đồng đội hy sinh được nhà thơ giải bày qua hình ảnh xúc động “có bông chuối rừng đỏ mắt suốt mùa mưa”. Từ cơn mưa dại khờ đến cơn mưa sợ hãi là sự trải nghiệm của đời người qua những bước thăng trầm. Nhưng ao ước được làm “cơn mưa muộn” là nỗi ao ước của một tâm hồn đa cảm, nhiều khát vọng về những gì tốt đẹp ở đời. Nếu ở thơ thể tự do anh luôn kiệm lời, tụ ý thì bài thơ “mưa trong thành phố’ là sự tuôn trào cảm xúc, đa điệu. Cơn mưa mở ra chân trời ký ức và thi sỹ tự thấy mình cô đơn, nhỏ nhoi “ta chỉ là hạt mưa xuống đất”. Bài thơ đánh dấu một hướng thơ triển vọng về thể thơ cách tân hiện đại được anh phát huy nhuần nhị.

Thơ Lê Thành Nghị không phải bài nào cũng hay. Vẫn có những bài chưa sâu, những câu rơi vào khô khan. Thậm chí cái hay có được nhờ tứ thơ độc đáo cứu cánh. Nhưng nhìn chung hầu hết các bài đều có tứ chặt và gợi. Cấu trúc thơ Lê Thành Nghị chặt chẽ, hài hòa về ý và lời, nhạc. Thi sỹ mà minh triết, thơ anh có cái mênh mang, lan tỏa mà vẫn hàm súc, lắng đọng. Những câu kết thơ của anh bao giờ cùng buộc người ta phải đọc lại toàn bài để hiểu rằng, thơ không chỉ là bạn qua đường mà còn “nằm lòng” bám rễ trong ta, khích lệ ta hay giúp ta nhận thức một điều gì đó. Nói về thi nhân anh cũng góp một suy nghĩ về thơ:

Những ồn ào, những hỏa mù phù vân

Và cái ác sẽ hóa thành tro bụi!

Thời gian sẽ tìm đến sau đám cháy

Những gì không thể cháy mà thôi

(Thi đàn)

Hay:

Có những câu thơ dù thiêu cũng không thể cháy

Như thể lửa càng to thảm cỏ mọc càng dầy

(Thi sỹ)

 

Với Lê Thành Nghị cũng vậy, thời gian sẽ thử thách tất cả, thơ anh không là ngoại lệ.

 

. . . . .
Loading the player...