02-08-2012 - 07:50

CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM QUÊ HÀ TĨNH

CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM QUÊ HÀ TĨNH
 

TÙNG BÁCH

Bút danh khác: Tùng Chi, Hữu Bằng Sơn

Họ và tên khai sinh: Lê Tùng Bách. Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1949. Quê quán: xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Thư ký toà soạn tạp chí Người làm báo - Hội Nhà báo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.  Hiện thường trú tại: 74/B2 Trương Công Định, phường 3, TP Vũng Tàu. Vào Hội năm 2004.
Vài nét về quá trình học tập, công tác, sáng tác: Sáng tác thơ từ năm 1967, chủ yếu là thơ, đăng tải trên các báo, tạp chí trung ương và địa phương.
 Tác phẩm chính đã xuất bản:T Mình với bóng (thơ, 1990); Vịt đực và Mào gà trống (thơ, 1995); Bầu trời của ếch (thơ, 2000); Người gieo hạt (thơ, 2002); Đi và nhặt (thơ, 2005).
 Giải thưởng văn học:T  Giải thưởng loại B tập thơ Người gieo hạt của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ( 2004). Giải thưởng cuộc thi sáng tác thơ, truyện cho lứa tuổi mầm non, do Nxb Giáo dục và Vụ Giáo dục mầm non- Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức 2005.
 Suy nghĩ về nghề văn: Viết văn, làm thơ là sở thích, niềm đam mê khiến người cầm bút trăn trở đến trọn đời.T
 
 

ĐỨC BAN

Họ và tên khai sinh:  Phạm Đức Ban. Sinh ngày 10 tháng 01 năm 1949. Quê quán: Xã Vĩnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Giám đốc Sở Văn hoá -Thông tin Hà Tĩnh. Hiện thường trú tại: Thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990.
 Vài nét về quá trình học tập, công tác, sáng tácT: Học xong phổ thông trung học, ở nhà làm xã viên HTX nông nghiệp, rồi đi Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, sau về công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, học khoá 2 Trường Viết văn Nguyễn Du. Từ đấy đến nay làm công tác văn hoá và viết văn. Từng là Chủ tịch Hội VHNT Hà Tĩnh, Tổng biên tập Tạp chí Hồng Lĩnh.
 Tác phẩm chính đã xuất bản:T Mưa rừng (tập truyện ngắn, 1976); Nơi có chuyện cổ tích (truyện, 1984); Hoa cúc vàng (truyện ngắn, 1984); Những tiếng chim (truyện ngắn, 1985); Những lỗi lầm đã qua (tiểu thuyết, 1988); Trăng vỡ (tiểu thuyết, 1993); Đêm thức (truyện ngắn, 1995); Cây cải lên trời (truyện ngắn); Sương mù chưa tan (truyện vừa); Khúc hát ngày xưa (truyện ngắn); Chuyện vẫn còn... (truyện ngắn); Mạng nhện bạc (truyện vừa); La Sơn Nguyễn Biểu (kịch dài)
 Giải thưởng văn học:T Giải A (2 lần), Giải B giải VHNT Nguyễn Du. Giải A, giải C Giải thưởng UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Giải B truyện ngắn báo Văn nghệ.
 
 
 

NHƯ BÌNH

 
Họ và tên khai sinh: Lê Thị Thanh Bình. Sinh ngày 6 tháng 8 năm 1972. Quê quán: Cẩm Vịnh, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phóng viên, biên tập viên báo Công an nhân dân. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2001.
 Vài nét về quá trình học tập, công tác, sáng tác: 9-1993 tốt nghiệp khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Vinh. Không có điều kiện theo nghề dạy học, nên đã vào làm việc tại Đài Phát thanh truyền hình Hà Tĩnh. Từ đó gắn bó với công việc biên tập và trở thành biên tập viên của Đài Phát thanh Truyền hình Hà Tĩnh. Viết báo, viết văn, viết kịch bản phát thanh truyền hình và học thêm Đại học Báo chí. Năm  2002 chuyển ngành sang Công an- Công tác ở chuyên đề An Ninh Thế giới cuối tháng - Báo Công an nhân dân.T
 Tác phẩm chính đã xuất bản: Giông biển (truyện ngắn, 1999); Đêm vô thường (truyện ngắn, 2002); Dòng sông một bờ (truyện thiếu nhi, 2001); Tử tù những nỗi đau số phận (Bút ký phóng sự, 2005).T
 Giải thưởng văn học: Giải B giải thưởng văn học Nguyễn Du (1995-2000). Giải C cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội, 1995. Giải Tác giả trẻ cho tập truyện ngắn Giông biển của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, tặng thưởng truyện ngắn hay báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam.T
 Suy nghĩ về nghề văn: Đầu tiên tôi đến với văn chương như một sự tìm kiếm những ý nghĩa trong cuộc sống của riêng tôi. Sau đó, những gì tôi suy ngẫm và viết ra đã được bạn đọc đón nhận. Từ đó, tôi nghĩ rằng, nghề văn là một công việc khó khăn và không đơn giản. Công việc ấy sẽ vắt kiệt mình, một công việc đòi hỏi mình phải cống hiến toàn vẹn. Văn chương thật nghiệt ngã. Tôi chỉ ao ước để lại được một cái tên cho đời, để khi nhắc đến Như Bình, ít ra cũng một vài người biết rằng tôi là người làm nghề viết.T
 
 
 

PHAN QUỐC BÌNH
Bút danh khác: Hà Bình Hưng

 
Sinh ngày 11 tháng 02 năm 1948. Quê quán: Xã Sơn Trà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Đài Phát thanh- Truyền hình Hà Tĩnh. Hiện thường trú tại: 14 - Khối Văn Trung, phường Hưng Dũng, TP Vinh. Vào Hội năm 2003.
 Vài nét về quá trình học tập, công tác, sáng tác: Tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, lên công tác ở Ty Thông tin - Văn hoá Lai Châu, sau chuyển về Đoàn chèo Nghệ Tĩnh, xưởng Mỹ thuật, Trung tâm triển lãm địa phương... Năm 1992 học đại học báo chí (tại chức) rồi về Đài Phát thanh -Truyền hình tỉnh Hà Tĩnh.T
Bắt đầu viết văn từ những năm 70 thế kỷ XX. Bài thơ in đầu tiên là bài Trở lại Điện Biên in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội (1969)
 Tác phẩm chính đã xuất bản: Tặng phẩm trong vườn (thơ, 1989); Giao cảm (thơ, 1990); Với muôn loài (thơ, 1995); Đợt sóng tìm tôi (thơ, 2003).T
 Suy nghĩ về nghề văn: Thơ là sự xả thân. Thơ cũng là biểu hiện ý chí nghệ thuật và sự giải thoát. Sức mạnh tiềm ẩn của thơ tung ra những đợt sóng ngôn từ để tìm về cái đích của thơ. Nhà thơ cần tìm cho được dòng âm nhạc cảm xúc riêng và chính nhịp điệu ấy đã tạo nên bản sắc, diện mạo. Sự đóng góp là cái không giống ai. Thơ như tạo hoá luôn vận động, đổi mới không ngừng.T
 
 
 

PHAN VĂN CÁC
Bút danh khác: PHÁC VĂN, PHÁC CAN

 
Sinh ngày 21 tháng 6 năm 1934. Quê quán: Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Hán Nôm, Uỷ viên Hội đồng khoa học Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Hiện thường trú tại: 31, ngách 46/12 Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội. Vào Hội năm 1991.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Đại học năm 1956, giảng dạy ngoại ngữ ở Đại học Nông nghiệp I, Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, làm công tác nghiên cứu ở Viện Khoa học giáo dục, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu Hồ Chí Minh và Viện nghiên cứu Hán - Nôm (từ 1990 đến 2000 là Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán - Nôm); Nghiên cứu viên cao cấp Viện KHXH VN. Phó giáo sư ngôn ngữ học.T
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Một số tác phẩm dịch: Cùng cất lời ca (1960); Thơ Quách Mạt Nhược (1964); Bài ca Lôi Phong (1965); Một nửa đàn ông là đàn bà (tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng, 1989); Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh ngoài Ngục trung nhật ký (1992); Phong cách nam nhi (tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng, 1994); Lửa ghen (truyện ngắn Đài Loan, 1995); Lã Thị Xuân Thu (1999); Thơ Lỗ Tấn (2002); Hoa viên kỳ ngộ (1997); Cổ duệ từ (2000). Nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu: Tổng tập văn học Việt Nam (tập 11, 1994); Tuyển tập văn học Hồ Chí Minh (tập 3, 1995); Thơ văn Nguyễn Cao (1992); Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý (chủ biên, 1998); Văn khắc Hán Nôm Việt Nam thời Trần (2 tập, chủ biên, 2002); Từ điển Hán Việt (1994); Từ điển Hán Việt (chủ biên, 2002); Từ thường dùng trong Hán văn cổ (1999) ; Đại từ điển Việt- Hán (2006) ...T
 GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001 cho tác phẩm Cổ duệ từ (dịch).T
 SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Biển văn mênh mông và sâu thẳm, đầy sức lôi cuốn. Mỗi người đến với nghề văn bằng một nẻo đường riêng, gắn với con đường học tập và công tác của mình. Phiên dịch, giới thiệu văn học chữ Hán Việt Nam và văn học Trung Quốc là hai lĩnh vực khác nhau nhưng rất gần nhau và đều có ích cho sự nghiệp xây dựng nền văn học Việt Nam hiện đại. Có dành cả cuộc đời mình cũng chẳng thấm vào đâu, vì công việc cực kỳ lớn lao và nặng nề. Đóng góp được phần nào hay phần ấy.T
 
 
 

LƯƠNG SĨ CẦM

 
Sinh ngày 15 tháng 12 năm 1929. Quê quán: xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1977.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống hiếu học; đã đỗ Thành Chung. Sau Cách mạng Tháng Tám, vào đội quân Nam Tiến,  chiếnT
đấu ở vùng đất khu V. Từng làm báo, làm công tác địch vận, đã trực tiếp quản lý tù hàng binh Pháp. Tập kết ra Bắc, được phân công về công tác trong lực lượng bộ đội biên phòng, làm báo, làm tuyên huấn, viết ký sự lịch sử; nghỉ hưu với quân hàm đại tá. Đã qua Trường bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn (1962), tốt nghiệp Học viện Chính trị trong quân đội (1967-1968). Từng là Phó trưởng ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam (2000-2005).
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Ánh lửa (truyện và ký, 1962); Đất rừng lau (truyện ngắn, 1963); Từ núi rừng Ba Tơ (ký, 1964); Lê Đình Chinh (truyện ký, 1980); Rừng biên giới (truyện, 1984); Người thợ săn (truyện, 1984); Trận đầu (tiểu thuyết, 1986); Sắc rừng A Bai (tiểu thuyết, 1986-1987, hai tập); Em vẫn chờ ngày cưới (tiểu thuyết, 1991); Ngang trái (tiểu thuyết, 2002).T
 GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: - Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 1960 (Chuyến tuần tiễu đêm cuối năm). Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết (Bộ Công an- Hội Nhà văn Việt Nam)  2002.T
 SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi theo đoàn quân Nam Tiến vào mặt trận Đèo Cả (1946). Mới tham gia chiến đấu được hai trận thì được nhà thơ Trần Mai Ninh “phát hiện” ra khả năng viết báo tường và rút về làm tờ Xung phong - tờ báo in của Đại đoàn 27 (Nam Trung bộ)... Cho đến bây giờ tôi vẫn không quên những lời dạy bảo của nhà thơ đàn anh hồi ấy, rằng phải đi sát bộ đội để viết về bộ đội. Một đời viết văn của tôi chỉ tâm niệm viết về người chiến sĩ, viết về đề tài bảo vệ tổ quốc. Trải qua ba cuộc chiến tranh Vệ quốc đã có biết bao đồng đội của tôi hy sinh, vì nghĩa cả không tiếc cuộc đời, máu xương. Họ là nơi tụ hội của nhiều vẻ đẹp Việt Nam. Viết về họ, tôi cảm thấy tâm hồn mình trong sáng hơn. Các nhân vật của tôi thôi thúc tôi sống tốt hơn. Không thể nói đến “chân”, “thiện”, “mỹ” nếu người cầm bút không hướng thiện. Dù trong chiến tranh hay trong hoà bình, mỗi bước đi của dân tộc ta đều vất vả gian nan. Hãy giữ vững niềm tin vào con người ! Tôi thường tự nhủ mình như vậy mỗi khi cầm cây bút.T
 

HUY CẬN
(1919-2005)

 
Họ và tên khai sinh: Cù Huy Cận. Sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919. Quê quán: xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Đảng viên Đảng CSVN.  Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất tại Hà Nội năm 2005.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC:  Từ đầu năm 1942 vừa học Nông Lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. 1945 tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban giải phóng toàn quốc, sau Cách mạng là Bộ trưởng Bộ Canh Nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là thứ trưởng Bộ Canh Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949-1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính Phủ. Từ 1955-1984, Thứ trưởng Bộ Văn hoá. Từ 1984: Bộ trưởng đặc trách công tác văn hoá thông tin tại Văn phòng Hội đồng bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban TƯ Hội LHVHNT Việt Nam. Từng là Phó chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Phó Phủ tịch Hội đồng chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, đại biểu Quốc hội khoá 1, 2 và 7, 8, uỷ viên Hội đồng chấp hành UNESCO từ 1978-1983, đồng chủ tịch Hội đồng văn học Á Phi 1962 tại Cairo, đồng chủ tịch Hội đồng Văn hoá thế giới 1968 ở LaHabana, uỷ viên Hội đồng văn học Pháp ngữ 1985-2000. Năm 2001 được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Thơ thế giới.T
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (1960) Bài thơ cuộc đời (1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thuỷ Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo thơ (thơ, 1984); Lửa nồng muối mặn (2001); Cha ông nghìn thuở (tráng ca, 2002); Tâm sự cùng hai thế kỷ, Tao phùng, Chim làm ra gió, Ta về với biển, Thiên nhiên nôi ấm của mình, Thông điệp từ vừng sao và từ trái đất.T
 GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 1996.T 
 
 

NGUYỄN HUỆ CHI

 
Sinh ngày 14 tháng 7 năm 1938. Quê quán: làng Đông Thượng, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: quận Ba Đình, Hà Nội. Vào Hội năm 1984.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1960 tốt nghiệp khoá I khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội, tham gia hoạt động báo chí (1960-1961). Từ 1962 đến 2003: cán bộ nghiên cứu tại Viện Văn học. Giáo sư ngành Ngữ văn.  Hiện nghỉ hưu.T
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: In riêng: Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam - Thời kỳ cổ-cận đại (tiểu luận, 1983); Hoàng Ngọc Phách - đường đời và đường văn (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1996).T
Viết chung: Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (nghiên cứu, 1967); Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội Châu (nghiên cứu, 1970); Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật (nghiên cứu, 1973); Xã hội Việt Nam thời Lý-Trần (nghiên cứu, 1983); Từ điển Văn học (nghiên cứu và biên soạn, 2 tập, 1983- 1984, tái bản có sửa chữa, bổ sung thành 1 tập, 2004); Đường vào văn hoá Phần Lan (tuyển soạn, 1996);
 Chủ biên: Nguyễn Trãi - khí phách và tinh hoa của dân tộc(nghiên cứu, 1981); Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung quốc xâm lược (nghiên cứu, 1982); Thơ văn Lý-Trần (sưu tầm, nghiên cứu, nhiều tập, 1977 và 1989); Liêu trai chí dị (dịch, 1989); Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù (nghiên cứu, 1990-1993); Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ (chuyên khảo, 1992-1994)
 
 
 

TRƯƠNG CHÍNH
Bút danh khác: NHẤT VĂN, NHẤT CHI MAI
(1916-2004)
 

 
Họ và tên khai sinh: Bùi Trương Chính. Sinh ngày 16 tháng 7 năm 1916. Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh
Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1957. Mất ngày 7-10-2004 tại Hà Nội.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Chuyên gia về văn học Trung Quốc và văn học cổ Việt Nam, viết phê bình văn học Việt Nam từ 1939 đến nay. Nhiều năm dạy học ở trường phổ thông và đại học; Từng là tác giả của các bộ sách giáo khoa, giáo trình môn Văn ở phổ thông và đại học. Phó giáo sư, Nhà giáo ưu tú.T
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dưới mắt tôi (phê bình văn học, 1939); Những bông hoa dại (nghiên cứu văn học dân gian, 1941); Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (viết chung, 1955); Thơ văn chữ Hán Nguyễn Du (nghiên cứu, 1965); Thơ văn Nguyễn Công Trứ (nghiên cứu, 1979); Hương hoa đất nước (phê bình, tiểu luận, 1979); Tuyển tập Trương Chính (1997). Nhiều tác phẩm dịch văn học Trung Quốc: Gào thét, Bàng hoàng, Chuyện cũ viết lại, Tạp văn (3 tập) của Lỗ Tấn.T
 GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về khoa học xã hội và nhân văn, đợt I, năm 2000 cho bộ sách Tuyển tập Trương Chính.T
 SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Không có gì đặc biệt. Chỉ là ham mê văn học, thích nói ý kiến riêng của mình về một tác giả, một tác phẩm đã đọc và mình yêu mến, rồi vừa viết, vừa học tập, trau dồi tư tưởng cho khỏi sai lầm và thích hợp với thời đại, rất chú ý đến cách hành văn.T
Là một nhà phê bình và nghiên cứu văn học, tôi chú ý nhất tính trung thực, nói thật những cảm nghĩ của mình, không phụ hoạ ai, không nói theo ai, không có ý kiến gì thì không viết. Tôi cho rằng sống hay viết đều phải có lý tưởng (lý tưởng của thế hệ mình và thời đại mình). Rất ghét thứ văn chương trống rỗng, văn chương xu thời, văn chương xu nịnh. Đơn giản chỉ có thế. Nhưng chính vì thế mà không được lòng ai, ít được ai chú ý, bị người ta lảng tránh hoặc e dè. Dù biết vậy, nhưng tôi không thể thay đổi hay ân hận, cũng không hề phàn nàn, chỉ ghi lại cho nhớ mà thôi.
 
 

XUÂN DIỆU
Bút danh khác: Trảo Nha
(1917-1985)

Họ và tên khai sinh: Ngô Xuân Diệu. Sinh ngày 2 tháng 2 năm 1917 tại Bình Định. Quê quán: Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất ngày 18 tháng 12 năm 1985 tại Hà Nội.
*   Vài  nét về quá trình học tập, công tác,
sáng tác: Sau khi đậu tú tài, năm 1940, làm viên chức ở Mỹ Tho. 1943 xin thôi việc ra Hà Nội. 1944 tham gia phong trào Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc, thư ký toà soạn tạp chí Tiên phong. Kháng chiến chống Pháp công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam, Hội Văn nghệ Việt Nam, thư ký toà soạn tạp chí Văn nghệ, là uỷ viên thường vụ, uỷ viên Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I, II, III). Đại biểu Quốc hội khoá I. Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức (1983).
*  Tác phẩm chính đ• xuất bản: Thơ: Thơ thơ (1938, tái bản nhiều lần); Gửi hương cho gió (1945, 1967); Ngọn quốc kỳ (1945, 1961); Hội nghị non sông (1946); Dưới sao vàng (1949); Riêng chung (1960); Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962); Một khối hồng (1964); Hai đợt sóng (1967); Tôi giầu đôi mắt (1970); Hồn tôi đôi cánh (1976); Thanh ca (1982); Một chùm thơ (tuyển, Pari, 1983); Tuyển tập Xuân Diệu - tập I (1982, 1986). - Văn xuôi: Phấn thông vàng (1939, 1967); Trường ca (1945, 1957); Miền Nam nước Việt (1945); Việt Nam nghìn dặm (1946); Việt Nam trở dạ (1948); Ký sự thăm nước Hung (1956); Triều lên (1958). - Tiểu luận phê bình: Thanh niên với quốc văn (1945); Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); Dao có mài mới sắc (1963); Và cây đời m•i mãi xanh tươi (1971); Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2 tập, 1981, 1982); Công việc làm thơ (1984). - Dịch: Thi hào Nadim Hítmét (1962); Vây giữa tình yêu (1968); Thơ Nicôla Ghiden (1982); Những nhà thơ Bungari (1985)...
*  Giải thưởng văn học: Giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Ngôi Sao). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt I, 1996.
*  Suy nghĩ về nghề văn: Cách mạng đ• mở ra cho tôi những chân trời mà trước đây tôi không thể mơ ước được. Bây giờ ngày càng có nhiều người đọc sách, đọc thơ. Trước Cách mạng, tôi là nhà thơ của một số ít người. Sau Cách mạng tôi trở thành nhà thơ của đông đảo quần chúng. Con dế mèn trong đám cỏ gáy lên không phải để cho riêng mình. Nó gáy lên để tìm bạn. Nhà thơ mong muốn sao lời ca của họ được hàng triệu người nghe. Sự công nhận của đông đảo quần chúng là nguồn sức mạnh, nguồn cảm hứng của tôi.
 
 
 

LÊ BÁ HÁN
(1933- 2006)

 
Sinh ngày 15 tháng 2 năm 1933. Quê quán: Đức Bồng, Vũ Quang, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1994. Mất ngày 19-12-2006 tại Hà Nội.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Khi nhỏ, học Phổ thông ở quê. 1957: Tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ 1957-1959: giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ 1959-2000: Giảng viên trường Đại học Sư phạm Vinh. Từ 9/2000 đến 9/2006 là Chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Dân lập Văn Hiến, thành phố Hồ Chí Minh. Phó Giáo sư Ngữ văn.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Cơ sở lý luận văn học (tập I, II, lý luận, viết chung, 1965); Cơ sở lý luận văn học (tập I, II, lý luận, viết chung, 1980, 1985); Thuật ngữ nghiên cứu văn học (lý luận, chủ biên, 1974); Những bức thư văn học (1974); Phân tích thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh (1988); Từ điển thuật ngữ văn học (lý luận, chủ biên, 1992); Về một số vấn đề lý luận văn nghệ đang được tranh luận qua công cuộc đổi mới 1987-1992 (lý luận, chủ biên, 1994); Tinh hoa Thơ mới - thẩm bình và suy nghĩ (nghiên cứu, chủ biên, 1998); Con người Nghệ An trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (nghiên cứu, chủ biên, 2001).
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Qua gần nửa thế kỷ, tiếp cận với nhiều hệ thống lý luận văn học, tôi nghiệm thấy vấn đề của mọi vấn đề chính là Văn và Đời. Có loại văn vì thời cũng chính là vì đời, có loại văn xu thời nên rất xa đời, đó là văn của kẻ kém tài, cơ hội. Danh hiệu nhà văn cao quý chỉ dành cho những ai thực sự vì đời, qua văn sưởi ấm hồn người, đem lại niềm phấn chấn, tin yêu cuộc sống.
Trong công cuộc đổi mới, lý luận văn học Mác - Lênin phải biết làm phong phú mình qua hấp thụ tinh hoa của các hệ thống lý luận khác, nhưng cần luôn kiên định, sáng suốt để không đánh mất mình.
 
 

LÊ QUỐC HÁN

 
Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1949. Quê quán: Xã Kỳ Châu, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Khoa toán, Đại học Vinh. Hiện thường trú tại: Khối 6, phường Bến Thuỷ, TP Vinh, tỉnh Nghệ An. Vào Hội năm 2002.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1969-1976 Học Sư phạm 10+1 và dạy học ở Hà Tĩnh. 1976-1982 học Đại học và Cao học ngành toán học ĐHSP Vinh. Từ 1982 đến nay là cán bộ giảng dạy, tiến sĩ, phó giáo sư khoa Toán Đại học Vinh. Tháng 12/1002 được bầu vào Ban chấp hành Hội VHNT Nghệ An (khoá VI).
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Lời khấn nguyện (thơ, 1996); Bến vô cùng (thơ, 1999); Thơ trong ký ức (bình thơ, 2002); Mạc Khải (thơ, 2004).
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải Ba cuộc thi thơ tạp chí Sông Lam (1999-2000) với bài Tạ. Giải Ba cuộc thi văn học Tầm nhìn thế kỷ của báo Tiền phong (1999-2001) với bài Trở trời, Giải A Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương (1997-2002) cho tập thơ Bến vô cùng. Giải C Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương (2002-2005) cho tập thơ Thơ trong ký ức.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN:
        Đã mang lấy bút làm chèo
        Con thuyền nhân ái xin neo cuối trời
... Tôi là học sinh của nhiều nhà trường; m•i m•i tôi vẫn là học sinh. Dù vậy, tôi đi trên đôi chân mình và điều cơ bản nhất mà thơ tôi hiến cho bạn đọc là những giọng điệu của tôi, là tâm khảm, là linh hồn của tôi.
 
 
 

HOÀNG NGỌC HIẾN
 

 Sinh ngày 21 tháng 7 năm 1930. Quê quán: Đức Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 418 Đê La Thành, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1987.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Làm nghề dạy học từ năm 1949 đến khi về hưu. Đã từng dạy ở các trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Văn hoá, Trường Viết văn Nguyễn Du. Tiến sĩ Văn học.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Maiacốpxki, con người, cuộc đời và thơ (khảo cứu, 1976); Maiacốpxki, hài kịch (dịch, 1984); Văn học Xô viết đương đại (khảo cứu, 1987); Văn học - học văn (tiểu luận, phê bình, 1990); Văn học gần và xa (tiểu luận, phê bình, 2003); Triết lý văn học và triết luận văn chương (tiểu luân, phê bình, 2006).
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, 1985 cho tác phẩm dịch Maiacốpxki, hài kịch.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Những bài phê bình hay làm người đọc yêu văn học. Yêu văn học là yêu những giá trị tinh thần, sự khô cạn của tình yêu này đương là một trong những  sự khốn cùng của thế giới hiện đại. Cũng như các thể loại văn học khác, viết phê bình không thể thiếu cảm hứng. Người viết phê bình là người có những chủ kiến mạnh mẽ (về các vấn đề nhân sinh, cũng có khi là những vấn đề học thuật). Cảm hứng phê bình nảy sinh khi chủ kiến của nhà phê bình ngẫu nhiên cộng hưởng đâu đó với tác giả và tác phẩm nào đó. Nhưng chủ kiến của nhà phê bình là sản phẩm của sự suy nghĩ, có ý thức đồng thời có gốc rễ vô thức (có những kinh nghiệm cá nhân và những kinh nghiệm cộng đồng được tàng trữ ở đây)
     Nhà phê bình không thể không tìm hiểu tác giả, tác phẩm mình phê bình, sự tìm hiểu này có thể làm thay đổi chủ kiến của nhà phê bình nhưng cuối cùng thì viết phê bình vẫn là bộc lộ chủ kiến của mình. Octavio Paz hoàn toàn có lý: "Đối với nhà phê bình, bài thơ là điểm xuất phát để đi đến một văn bản khác, văn bản của mình"
 
 

PHAN TRUNG HIẾU
 
Bút danh khác: TRUNG HIẾU, CHÂU BẢO

 
Sinh ngày 02 tháng 5 năm 1962. Quê quán: Đức Xá, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không
Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Chủ tịch Hội LH VHNT Hà Tĩnh. Hiện thường trú tại: Phường Tân Giang, thị xã Hà Tĩnh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2005.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1980-1984 sinh viên khoa văn Đại học Sư phạm Vinh. Ra trường, công tác tại Bảo tàng Xô Viết nghệ Tĩnh. Năm 1986, vào quân đội công tác ở Bộ chỉ huy quân sự Nghệ Tĩnh. Năm 1990 về công tác tại Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh cho đến nay.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Giấc mơ bong bóng (tập đồng thoại, 1994); Mùa chuyển (tập bút ký, phóng sự, 1998); Vườn đất Thánh (tập tự truyện, 2000); Hành trang đá (thơ, 2002); Chú nhện đu bay (tập truyện thiếu nhi, 2004).
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng VHNT Nguyễn Du lần II (1995) và lần III (2000), lần IV (2005) cho 3 tập truyện thiếu nhi. Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam cho tập tự truyện Vườn đất Thánh.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Đây không phải là một thú chơi nhàn nhã, ngẫu hứng mà quả là một nghề lao động trí óc đầy công phu, cực nhọc. Khẳng định được mình trên văn đàn đã là khó, giữ được mình và vượt lên chính mình lại càng khó hơn. Nghề văn giống như người đào đãi vàng. Cứ sống, đi và viết rồi tự mình sàng lọc và cả bạn đọc sẽ giúp mình phân biệt những giá trị thực còn lại với thời gian.
 
 

BÙI VIỆT HOA

 
Sinh ngày 15 tháng 12 năm 1946. Quê quán: Xuân Hội, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Hiện thường trú tại: Số 8 đường Chùa Thông, Nhân Chính, Hà Nội. Vào Hội năm 1997.
    * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp đại học chuyên ngành khoa ngữ văn Hung- Phần Lan năm 1987 tại đại học Tổng hợp Budapest, Hunggary. Hội viên Hội Kalêvala (Phần Lan) và Hội văn học Phần Lan từ năm 1990.
    * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Truyện cổ thế giới (đồng dịch giả, 1990); Tiếng đàn Katele (Trích dịch tuyển tập thơ Kateletare của Phần Lan sang tiếng Việt); Hội Kalêvala Helsinxi (1990); Tán cala pá ra tiếng Hunggari cùng dịch giả người Hung Raz Tatstvan Budapetét 1990; Kalêvala (sử thi Phần Lan,
 
 

TRẦN KIM HOA
Bút danh khác: HÀ CHÂU

 
. Sinh ngày 20 tháng 5 năm 1966. Quê quán: xã Thạch Vĩnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Trưởng văn phòng đại diện báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Hiện thường trú tại: Nhà 50B, ngõ 154 Đội Cấn, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2005.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1984 vào đại học. Dạy học tại Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội từ 1988-1995. Sau đó chuyển sang nghề làm báo chuyên nghiệp.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Nơi em về (thơ, 1990); Quá khứ chân thành (thơ, 1998); Lối tầm xuân (thơ, 2003); Hoạ mi năm ngoái (thơ, 2005).
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2003-2004.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Trong dòng sông thơ, tôi nghĩ mình chỉ như một con sóng nhỏ. Tôi mong muốn con sóng ấy luôn mang đúng tên mình.
 
 
 

XUÂN HOÀI
(1941-2006)

 
Họ và tên khai sinh: Bùi Xuân Hoài. Sinh ngày 15 tháng 5 năm 1941. Quê quán: Thị trấn Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.  Hiện thường trú tại: Số 8 Ngõ 11, đường Minh Khai, TP Vinh, Nghệ An. Đảng viên Đảng CSVN: 1969. Vào Hội năm 1981. Mất năm 2006.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Khoa Toán ĐHSP Vinh năm 1962, dạy học 12 năm ở Hà Tĩnh rồi chuyển ra Hội VHNT Nghệ Tĩnh. Nguyên Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, Giám đốc Sở Văn hoá -Thông tin Hà Tĩnh. Tỉnh uỷ viên các khoá 12, 13, 14; đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh các khoá 11, 12, 13.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hương quê (thơ, in chung, 1971); Tiếng chim vườn (thơ, 1976); Sau những tháng năm (thơ, 1983); Dưới trời mây trắng (thơ, 1987); Bóng trưa (thơ, 1991); Gửi người xa xứ (thơ, 1998); Khói lam chiều (thơ, 2002); Thơ Xuân Hoài và một số tập thơ cho thiếu nhi.
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải khuyến khích thơ báo Văn nghệ (1969), Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Du (Nghệ Tĩnh) lần 1 và lần 2, lần 3 (Hà Tĩnh), Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc LH các Hội VHNT Việt Nam 1995, 1998.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN:
        ...Viết cho một thời vẫn phải nghĩ sâu xa
        Viết cho một người phải nhớ bao người đọc
        Có câu thơ được viết trong chăm sóc
        Nhưng cũng có câu thơ rút ruột nỗi đau đời
 

 
PHẠM KHẮC HÒE
(1902-1995)

 
Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1902. Quê quán: Đức Nhân, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 22 tháng 6 năm 1995 tại Hà Nội.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Trước cách mạng từng giữ chức Ngự tiền văn phòng Đổng lý trong triều đình Huế. Sau 1945: tham gia kháng chiến, đã giữ các chức vụ: Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ; Vụ trưởng Vụ pháp chế - Phủ Thủ tướng; uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc (hồi ký, 1983); Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn (truyện, 1986).
     * Từ chỗ là một quan chức cao cấp của triều đình Huế trở thành một cán bộ cách mạng của chế độ mới là cả một quá trình tự giác ngộ và được giác ngộ, quá trình nhận thức và lựa chọn của nhà văn. Hành trình đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe là hành trình của một trí thức yêu nước tìm về dân tộc, hành trình của niềm tin vào chân lý lịch sử. Phạm Khắc Hòe kiên trì con đường đã chọn. Con đường ấy, như nhà văn đã viết trong hồi ký là: “Con đường mà Hồ Chủ tịch đã vạch ra cho toàn thể đồng bào... Tôi tự hứa suốt đời phấn đấu noi gương Bác, cố gắng vươn lên không ngừng, hiến dâng tất cả tâm hồn và thể lực của mình cho Tổ quốc, cho dân tộc”.
 
 
 

BÙI HỒNG
Bút danh khác: VĂN HỒNG, TÂN ĐÌNH, THANH HƯƠNG

 
Họ và tên khai sinh: Bùi Văn Hồng. Sinh ngày 5 tháng 12 năm 1931. Quê quán: Phù Việt, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.
Hiện thường trú tại: quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1984.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tham gia công tác Đoàn từ tháng 8/1945; công tác tuyên huấn, tổ chức Đảng ở quê từ 1948. Bắt đầu viết và in các truyện ký, phê bình sách từ 1951. Sau khi tốt nghiệp đại học Tổng hợp Văn, năm 1962 đến 1992 làm biên tập rồi Trưởng ban và Tổng biên tập Nxb Kim Đồng.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Trên đất Cẩm Bình (truyện ký, 1968); Cá rô ron không vâng lời mẹ (truyện đồng thoại, 1969); Hoa trái mùa đầu (phê bình tiểu luận, 1987); Mười năm ghi nhận (phê bình tiểu luận, 1996); Cô gái bướng bỉnh (truyện ký, 2001); Hương cây - mối tình của tôi (truyện ngắn, 2002); Từ mục đồng đến Kim Đồng (tức Mười năm ghi nhận, có bổ sung, 2002); Mai đây đi hết con đường… (chân dung và hồi ức, 2007).
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Tặng thưởng của Uỷ ban thiếu niên nhi đồng và Hội Nhà văn việt Nam cho tập Trên đất Cẩm Bình, năm 1968.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Phê bình là văn học, khoa học về văn chương. Phê bình phải vừa đúng, vừa hay. Với văn nghệ cho thiếu nhi, người sáng tác, người phê bình đều phải xuất phát từ các em, vì các em.
 
 
 

DƯƠNG ĐÌNH HY
 
Bút danh khác: GIÓ NAM, SAO LIỀM, VIỄN HỒ, CẨM NHƯỢNG

 
Sinh ngày 21 tháng 10 năm 1935. Quê quán: Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: TP Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1974.
     * VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng học ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) những năm 1954-1956; Sau khi tốt nghiệp khoa văn trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, tiếp tục làm báo chí, xuất bản…  Trải qua các công việc của phóng viên, thư kí toà soạn, trưởng ban, phó tổng biên tập, tổng biên tập của các tờ báo Người giáo viên nhân dân, Khăn quàng đỏ, Mỹ nghệ kim hoàn… và Nxb Lao Động.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Đến trường mới (tập truyện, 1957); Giờ lên lớp đầu tiên (1957); Ngày mai (thơ, 1972); Đường dài (tập truyện, 1973); Thuỷ chung (tập truyện, 1975); Vườn xưa (2007) … Và một số tác phẩm dịch, một số kịch bản phim hoạt hình.
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Văn học đề tài công nhân do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, năm 1971 (tập thơ Ngày mai). Giải thưởng cuộc vận động viết về thương binh liệt sĩ do Bộ LĐ-TB-XH và Hội Nhà văn tổ chức, 1974 (tập Thuỷ chung)
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Ta muốn viết bài thơ, Bằng trăm ngàn thứ tiếng, Thơ vượt ngàn sông biển, Đến tay người anh em. Thơ ơi, như máu nóng, Chảy thẳng vào muôn tim, Những người yêu cuộc sống, Xiết tay cùng đứng lên… (Trích "Bẻ lá làm thuyền", 1954).
 
 

ĐOÀN TỬ HUYẾN
Bút danh khác: NAM HỒNG, HUYỀN LI

 
Sinh ngày 27 tháng 12 năm 1952. Quê quán: xã Đức Hòa, sau chuyển lên ở Đức Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1989.
     *  VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG  TÁC:  Tốt nghiệp đại học Tổng hợp khoa Ngữ văn ở Liên Xô, về làm giảng viên văn học Nga trường
Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Từ năm 1983: chuyển làm biên tập viên văn học nhà xuất bản Lao động. Từng là Uỷ viên Hội đồng văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam (1995-2005), Phó tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài (1996-1998), hiện là Chủ tịch Hội đồng văn học nước ngoài Hội Nhà văn Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.
     * TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dịch và biên soạn khoảng bốn chục đầu sách, trong đó có: Tiếng gọi vĩnh cửu (tiểu thuyết của Ivanov, 1986, tái bản 1999); Kỳ lạ thế đấy cuộc đời này (tiểu thuyết của D. Granin, 1986, 2004); Nguyệt thực (tiểu thuyết của V. Tendriacov, 1986); Sáu mươi ngọn nến (truyện vừa của V. Tendriacov, 1987, 2005); Trò chơi (tiểu thuyết của Bondarev, 1987, dịch chung); Trái tim chó (tiểu thuyết của M.Bungacov, 1988, 1997, 2004); Bố già (tiểu thuyết M.Puzo, 1987, dịch chung với Trịnh Huy Ninh, 1987); Nhật ký vũ trụ của Ion Lặng Lẽ (truyện giả tưởng của S.Lem, 1988); Nghệ nhân và Margarita (tiểu thuyết của M.Bungacov, 1988, 2004); Truyện vừa và truyện ngắn A. Kuprin (1994); Đêm sau lễ ra trường (truyện vừa của A.Tendriacov, 1994); Và hòn đá ấy trở thành Đấng Cứu Thế (tiểu thuyết của O. Silva, 1997): Những ý nghĩ vụt hiện (cách ngôn của L. Les, 2004); Hải âu Jonathan Livingston (tiểu thuyết của R. Bach, 2004). Và chủ biên nhiều cuốn khác.
     * GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Nghệ nhân và Magarita (tiểu thuyết Bungacov) Giải thưởng văn học dịch Hội Nhà văn 1990-1991, Tặng thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội.
     * SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Dịch sách phải là một nghề chuyên nghiệp và là một nghệ thuật. Chẳng thế mà người ta gọi nó là dịch thuật. Nhưng hiện nay đội ngũ dịch thuật của ta không chuyên, tự phát, manh mún, như báo chí đã nói nhiều, trước hết là không có bất kỳ một cơ sở đào tạo nào chuyên về dịch văn học cả. Những người học ngoại ngữ có học dịch chủ yếu là làm phiên dịch, cùng lắm là công tác biên dịch, còn chuyên về dịch sách, nhất là dịch sách văn học, thì không có. Rồi nữa, công xá cho người dịch văn học thấp lắm. Một phiên dịch giỏi, ngồi dịch cabine ở các hội nghị, một giờ làm việc có thể kiếm được cả trăm đô la, trong khi đó ngồi dịch một trang sách văn học chỉ có giá khoảng một vài chục ngàn đồng. Hơn nữa lại không có bất kì một hình thức đầu tư, khuyến khích vật chất đối với những người dịch sách. Bởi vậy, chất lượng các bản dịch văn học của ta hiện nay kém là chuyện dễ hiểu.
 
 

                           NGUYỄN QUỐC ANH

Họ và tên khai sinh: Nguyễn Quốc Anh. Sinh ngày 20 tháng 12 năm 1944. Quê quán: Đức Bùi, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Uỷ viên BCH Hội Văn nghệ Nghệ An. Hiện thường trú tại: 182 Phong Định cảng, TP Vinh, tỉnh Nghệ An. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2001.
 VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm  1963 nhập ngũ, từng là khẩu đội trưởng pháo cao xạ chiến đấu ở tuyến lửa Khu 4. Năm 1967 về công tác tại tỉnh đội Hà Tĩnh (biên tập sách Người tốt việc tốt). Từ 1969 đến nay, liên tục công tác ở Hội Văn nghệ Hà Tĩnh, Nghệ Tĩnh, Nghệ An. Đã theo học Lớp viết ký của Cục Văn hoá QĐND Việt Nam và khoá VI trường Bồi dưỡng viết văn Hội Nhà văn; Tự học Luật và ngoại ngữ. Hội viên Hội Luật gia Việt Nam (1985), Báo cáo viên Hội đồng Giáo dục Pháp luật tỉnh Nghệ An.T
 TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tình yêu sáng sớm (thơ, in chung, 1974); và các tập thơ in riêng: Trái mùa hoa, Gửi theo bạn bè, Gập ghềnh lối cỏ, Chua ngọt thường ngày, Lời cây và Nghìn dăm chân trần. Tập truyện: Gió ngàn (2000).T
 GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải ba thơ Hà Tĩnh (1967). Giải B văn do Hội Nhà văn-Bộ Giao thông vận tải trao cho bút ký Chuyện kể trước biển sóng; Giải B cuộc vận động sáng tác của Tổng cục Kỹ thuật QĐNDVN cho bút ký Cảm nhận Hải Vân. Và các giải B, C, giải thưởng Hồ Xuân Hương về thơ.T
 
 SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Sau thành công thuộc về bản năng, muốn viết tiếp thì phải viết bằng văn hoá. Văn hoá càng cao, càng rộng thì mới tiếp cận được thời đại. Với vốn tự học lõm bõm của tôi, viết càng ngày càng thấy khó, khó quá: Vừa phải tránh trùng lặp mình và tránh người. Cần một giọng điệu riêng mới tồn tại vậy.T
 
 

CẨM LAI
Bút danh khác: VIỆT HƯƠNG
(1923-2006)

Họ và tên khai sinh: Lê Thị Cẩm Lai. Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1923. Quê quán: Thạch Hà, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không.  Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1957. Mất ngày 1-9-2006.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ 9/1945 đến 1948: cán bộ Uỷ ban nhân dân, kiêm Bí thư Phụ nữ cứu quốc thị xã Hà Tĩnh. Uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc Hà Tĩnh. Từ 1/1948 đến 1957 là cán bộ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV, Chi hội trưởng Liên chi hội Phụ nữ cứu quốc của hai cơ quan Uỷ ban kháng chiến hành chính và ngân khố Liên khu IV. Từ 1957 đến 1959 là cán bộ Uỷ ban kháng chiến hành chính Quảng Bình, Uỷ viên thường trực Ban chấp hành Hội Văn nghệ Quảng Bình. Từ 1960 đến 1979: Trưởng ban biên tập Nxb Phụ Nữ. Từ 1980: Nghỉ hưu
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơ: Dòng máu trẻ (1947); Những đóa hoa ban (in chung, 1962); Tơ tằm (1963); Màu xanh (1972); Đất lên hương (in chung, 1978); Sắc biển (1979); Hương kỷ niệm (1990); Lời thơ dâng Bác (1990); Mây hồng (1993); Gió biếc (1991); Lệ đắng (1999); Để ta khuyên gió (2000); Nghiêng về ký ức (2001); Muôn vẻ tình yêu (2002). Văn xuôi: Tình bạn tình thơ (1987); Thời con gái (2000); Qua những dòng sông (tiểu thuyết, 2002); Nàng công chúa Battan (dịch, 2001).
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Nghề văn là nghề cao quý, được nhân dân yêu mến. Người làm nghề viết văn phải luôn luôn phấn đấu trong công tác cũng như trong cuộc sống. Người cầm bút phải trau dồi đạo đức, phẩm chất của mình…
 
 
 

TÔN PHƯƠNG LAN
Bút danh khác: HOÀNG LAN

 
Sinh ngày 10 tháng 8 năm 1950. Quê quán: Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Văn học. Hiện thường trú tại: Nhà 16 ngách 144/4 phố Quan Nhân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2006.
 
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Công tác tại Viện Văn học từ 1972 đến nay. Tháng 12/1996 bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ (nay là Tiến sĩ). Tháng 10/2000 được phong hàm Phó giáo sư.
 
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (chuyên luận, 1998, 2002); Văn chương và cảm nhận (tiểu luận, phê bình, 2005).
 
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi nghĩ là trong bất kì hoàn cảnh nào, cần hết lòng ủng hộ mọi sự tìm tòi, đổi mới. Tuy nhiên, mọi sự cách tân chỉ có thể thành công khi nó có mối dây liên hệ với truyền thống và có sự lành mạnh.
 
Không thể nói một tác phẩm hay mà lại không có công chúng, nhất là công chúng có học. Hướng đến chân thiện mỹ, vì thế, không chỉ là một trong những mục đích của người sáng tác mà còn là của cả người nghiên cứu, phê bình.
 
 
 

PHONG LÊ
 

Họ và tên khai sinh: Lê Phong Sừ. Sinh ngày 10 tháng 11 năm 1938. Quê quán: Sơn Trà, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Nhà F1, phòng 302, ngõ 165 đường Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1979.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ 1956-1959: học khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ 1960 đến 2003: công tác ở Viện Văn học. Đã qua chức trách Viện trưởng Viện Văn học, Tổng biên tập Tạp chí Văn học. Đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, Hội đồng văn học công nhân của Tổng công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam, Hội đồng khoa học Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước… Nhận học hàm Phó Giáo sư (1984) và Giáo sư (1991).
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970 (1972); Văn và người (1976); Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa (1980); Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại (1986); Văn học và công cuộc Đổi mới (1994); Nam Cao - phác thảo sự nghiệp và chân dung (1997); Văn học trên hành trình của thế kỷ XX (1997); Một số gương mặt văn chương và học thuật Việt Nam hiện đại (2001); Văn học Việt Nam hiện đại- những chân dung tiêu biểu (2001); Văn học Việt Nam hiện đại – lịch sử và lý luận (2003); Viết từ Hà Nội (2003); Về văn học Việt Nam hiện đại - nghĩ tiếp (2005); Người trong văn (2006)… Ngoài ra còn chủ biên hơn 20 công trình tập thể.
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2005.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN:  Ở đời, như bất cứ ai, mỗi người đều phải chọn lấy cho mình một nghề, tùy theo ham thích và khả năng của mình, khi thấy nghề đó là một cần thiết của xã hội. Cũng như mọi người, tôi đã chọn một nghề, và tôi đi cùng với nó.
 
 

VÕ THỊ KIM LIÊN
Bút danh khác: THUỲ VÂN

 
Sinh ngày 25 tháng 11 năm 1951. Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Giảng viên Trường Cao đẳng sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Vào Hội năm 2003.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp đại học sư phạm Hà Nội năm 1972. Đã giảng dạy qua các trường Cao đẳng Sư phạm  Hà Bắc, Cao đẳng Sư phạm Quảng Ninh, Cao đẳng Sư phạm Huế, Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang.
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: các tập thơ Nụ tầm xuân  (1996); Bến lặng (1997); Giao mùa (2000); Hạt bụi lạ ( 2003); Cỏ tháng giêng (2006) và 17 tiểu thuyết (bút danh Thuỳ Vân). Kịch bản phim: Mắt nhung (2005), Tường vi cánh mỏng (2006)
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì (không có giải nhất) thơ Văn nghệ Tiền Giang bài Trái tim người mẹ. Giải nhì  thơ Văn nghệ Tiền Giang bài Phấn trắng.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi vẫn nghĩ, viết văn, làm thơ là một cái nghiệp. Ai đã vướng vào nghiệp này, khó gỡ ra được. Sự thành công của mỗi người tuỳ thuộc vào cái TÂM, cái TÀI riêng. Nhưng ít nhất nó cũng sưởi ấm đượcchính trái tim người viết.
 
 

VĂN LINH
Bút danh khác: THAO BUN LINH, THOONG VAN VI CHÍT, TRẦN TÙNG,
XUÂN TƯỜNG, TRẦN THẠCH

 
Họ và tên khai sinh: Trần Viết Linh. Sinh ngày 1 tháng 1 năm 1930. Quê quán: phường Đại Nài, thị xã Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Phòng 219, tập thể A5, Giảng Võ, Hà Nội. Vào Hội năm 1968.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1945 đang học trung học thì vào bộ đội, chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên. Năm 1949 đi học sĩ quan. 1950-1954 tham gia tình nguyện quân chiến đấu trên chiến trường Lào. Năm 1957 làm công tác tham mưu, bắt đầu viết văn với tiểu thuyết đầu tay Mùa hoa dẻ. 1960 chuyển ngành làm cán bộ biên tập, học Đại học. Năm 1965 làm chuyên gia văn hoá giúp nước bạn Lào. Năm 1974 làm biên kịch tại Hãng phim  truyện Việt Nam. Năm 1991 nghỉ hưu.
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tiểu thuyết: Mùa hoa dẻ (1957); Goòng (1960); Đêm sương muối (1963); Trên đất bạn (1968); Gương mặt một người thân (1972); Pả Sua (1975); Khi đã ra khơi (1976); Kỷ niệm nơi đáy hồ (1976); Bên thác (1982); Hai bờ một thung lũng (1984); Con ngựa bốn vó trắng (1988); Đêm nhiệt đới (1994); Thành phố người em gái (1995); Sông Gianh (bộ ba, 1999); Tự do đầu tiên và cuối cùng (2003); Đất nước ông bà (2006). Ngoài ra còn có 23 tập truyện ngắn, ký, 3 tập sách thiếu nhi, 20 kịch bản phim truyện, phim truyền hình, phim hoạt hình.
 
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Một con gián bị sa vào cái chậu sắt tráng men, nó cố gắng bươn bò mong thoát khỏi tai hoạ. Thấy vậy tôi phải thốt lên Ô hay, mày có cánh kia mà, lại là một bộ cánh kép… Thế rồi một ngày nọ, trong khi bế tắc không thể viết thêm một dòng chữ nào nữa, tôi bỗng liên nghĩ tới câu chuyện về con gián và ngẫm ra rằng:
…Tâm hồn cùng trí tuệ mà Thượng Đế ban phát cho nhà văn khác nào một đôi cánh khoẻ hơn triệu triệu lần cánh chim hồng chim hộc. Với đôi cánh ấy, nhà văn vượt lên trên mọi cám dỗ tráng men, mọi dục vọng thơm tho, mọi lâu đài quyền quý nguy nga, đến thẳng với cõi ánh sáng trác tuyệt đặng hoàn thành thiên chức nhà văn. Nếu và có thể lắm chứ, bị rã cánh nửa đường, nhà văn cũng đủ hạnh phúc khi mình từng được trải rộng và vươn dài đôi cánh tự do giữa bao la tinh cầu…
 
 

ĐÌNH KÍNH

 
Sinh ngày 10 tháng 4 năm 1945. Quê quán: Thị trấn Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Uỷ viên BCH Hội liên hiệp VHNT Hải Phòng, Tổng thư ký Hội Nhà văn Hải Phòng, Chi hội trưởng chi hội nhà văn VN tại Hải Phòng. Hiện thường trú tại: 13, Điện Biên Phủ, Hải Phòng. Vào Hội năm 1986.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Xuất thân trong một gia đình viên chức. Tốt nghiệp phổ thông, vào bộ đội rồi được đào tạo tại trường sỹ quan thông tin. Tốt nghiệp, về quân chủng Hải quân công tác. Năm 1976, về trại sáng tác văn học của Tổng cục Chính trị. Năm 1979 học khoá I Trường Viết văn Nguyễn Du. Học xong, về quân chủng Hải quân công tác. Hiện nay sống và viết tại Hải Phòng
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Sóng cửa sông (truyện, 1976); Đảo mùa gió (tập truỵên, 1978); Người của biển (tiểu thuyết, 1985); Đất rừng (tiểu thuyết, 1987);  Lính Thuỷ (truyện ngắn, 1987); Biển có gai (tiểu thuyết, 1990); Đi mãi không hết mình (truyện ngắn, 2001); Đi tìm dấu tích con đường (ký, 2004); Cỏ lông chông (tiểu thuyết, 2004)... Ngoài ra còn viết kịch bản phim và biên soạn 10 đầu sách khác.
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học Bộ quốc phòng1989 với tiểu thuyết Người của biển. Giải thưởng Hoa phượng đỏ - Hải Phòng 1985. Giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hải Phòng các năm 1992, 1993, 1994-1995. Giải thưởng kịch bản phim truyện của Bộ Văn hoá- Thông tin năm 2001. Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam (2001-2004). Giải thưởng cuộc thi viết ký của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2005; Giải thưởng văn học nghệ thuật Hải Phòng năm 2006.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tài năng là thứ trời cho. Người trời cho ít, kẻ trời ưu ái cho nhiều. Nhưng một nhà văn tự trọng là biết viết đến tận cùng thứ trời cho ấy. Ngoài tài năng, để có tác phẩm, Nhà văn phải trung thực với nhận thức của mình và được trung thực với nhận thức của mình. Viết giả, viết không hay đừng hy vọng vị một cái gì.
( BBTsẽ tiếp tục đăng tải trọn vẹn các chân dung  nhà văn còn thiếu cùng tác phẩm tự chọn khi có đủ tư liệu)

. . . . .
Loading the player...