Tạp chí Hồng Lĩnh số 117 hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc tác phẩm "Bùi Cầm Hổ một tài năng, một phong tiết cao đẹp" của Nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian Võ Hồng Huy
Hai câu thơ, hai công trình nổi tiếng, mở dầu và kết thúc trọn vẹn một cuộc đời rất mực bình dị và thanh cao của Bùi Cầm Hổ. Trong dân gian, hầu như không ai không nhớ hai công đức sâu nặng ấy mỗi khi nhắc đến ông. Nhưng sẽ không hiểu hết về ông, nếu chỉ dừng lại ở đó. Toàn bộ sự nghiệp của ông gắn với lịch sử Đất nước. Lịch triều Hiến Chương đã xếp ông vào một trong năm vị danh thần quê ở xứ Nghệ, đã từng phò tá triều Lê có công lao, đức độ to lớn, nắm giữ những chức vị cao nhất ở triều đình, trong đó, xếp theo thế hệ trước sau, người đứng hàng đầu danh sách ấy là Bùi Cầm Hổ (2).
Ông quê xã Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc, nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Vị thuỷ tổ dòng họ ông vốn ở phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, làm giám vận sứ thời Trần, chỉ huy đoàn thuyền lương theo vua Trần hành quân vào Nam. Đoàn thuyền trẩy dọc sông Nghèn. Một cuộc gặp gỡ tình cờ, mặn nồng hò hẹn trước bến đò Cài, đã tạo cho vị thuỷ tổ ấy cơ hội dài lâu nhập cư quê vợ tại làng Kỳ Trúc, xã Kiệt Thạch, Can Lộc. Về sau, con cháu ông, lại từ Kẻ Cài – Kỳ Trúc dời sang Kẻ Treo - Đậu Liêu. Bùi Cầm Hổ sinh thành trên làng quê thân thuộc ấy(3). Lớn lên, ông được ra du học ở Thăng Long. Nhân có vụ án “canh lươn”, sắp đem xét xử, dư luận xôn xao bàn tán: người chồng buôn bán từ xa mới về, người vợ nấu bát cháo lươn cho ăn, chồng đột ngột chết. Bị tố giác đầu độc giết chồng, người vợ đã bị quan xử kiện bắt hạ ngục. Tìm hỏi nguyên do, ông biết người đàn bà kia bị oan. Ông nhận làm minh chứng để gỡ tội cho người ấy. Chỉ cần tìm mua loại lươn vàng, ở cổ có những chấm đen lốm đốm, thả vào chậu nước, đầu nó ngẩng cao như đầu rắn, đó chính là loại lươn độc, ăn nhầm, ngộ độc chết ngay. Được xác nhận đúng loại lươn ấy, quan xử kiện sai cho nấu cháo cho người tử tù ăn. Kết thúc thử nghiệm, quả đúng thật thế. Người vợ kia khỏi tội. Tiếng đồn dẫy khắp kinh kỳ. Tuy chưa thi đỗ, ông vẫn được triều đình đặc cách trọng dụng. Ông đã từng giữ các chức vụ: Ngự sử trung thừa, An vủ sứ Lạng Sơn, hai lần đi sứ Trung Quốc, thăng Tham Tri chính sự, chức Á Tướng, tương đương chức bồi tụng sau này. Trải thờ ba triều vua: Thái tổ, Thái tôn và Nhân tôn. Khi được nghỉ về quê, ông vẫn chăm lo đồng điền, rừng núi như một lão nông. Ông đã cùng dân làng xây một con đập bằng đá, chặn dòng Khe Vẹt, khai thông lòng Khe, bắt nguồn nước chảy theo một hướng từ đỉnh núi đổ về, tưới cánh đồng làng ông rộng mấy trăm mẫu, xưa nay, kinh niên hạn hán. Ông đã trở thành một trong những vị “tổ sư” ở vùng Nghệ Tĩnh và trong cả nước đắp đập đào kênh, dẫn nước tưới ruộng. Khi ông mất, được triều đình tặng phong Bỉnh quân đại vương, Thượng đẳng phúc thần. Đền thờ ông được xây cất ngay bên hữu ngạn của ngọn Khe Vẹt, trước chân núi Bạch Tỵ, trong dãy núi Hồng. Tên của ngôi đền nhân dân quen gọi Đền Đô Đài (4).
*
Hồng -Lam chung tú Bùi tướng công, thiên cổ vĩ nhân (5) Sở dĩ trở thành một nhân vật nghìn đời sống mãi, bởi từ tài năng, đức độ và phong tiết của ông. Đối với chính sự, ông là bậc sĩ phu tận tâm, quyết đoán, công minh, cương trực, không hề tránh né, xu phụ một ai. Bình sinh, ông rất ghét bọn gian nịnh, làm việc tắc trách. Làm việc ở gián đài, ông đã từng nhiều lần can ngăn Lê Thái Tôn không nên tin dùng bọn người ấy. Lê Quốc Khí, Trịnh Hoàng Bá là bọn người gian hiểm, “ném đá dấu tay”, a dua với bọn Lê Sát, đương chức tư đồ, tìm mọi cách giết hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo là bậc trung thần, có công lớn với đất nước. Bọn Lê Đổ, Lương Đăng là những tên xu nịnh, bợ đỡ, không đủ tin cậy giao cho họ làm những chức vụ gần gũi những nơi bàn bạc chính sự hệ trọng. Khi Lê Thái Tổ còn sống, rất ghét bọn người này, nhưng đến thời Lê Thái Tôn, bọn họ lại được cất nhắc trọng dụng. Ông thường quý trọng và bênh vực những người trung trực, dám nói thật, nói thẳng. Thời gian này, bọn Lê Sát xui nhà vua dốc nhiều tiền của, công sức, xây dựng quá nhiều chùa chiền, có chùa lớn đến 90 gian như chùa Thanh Đàm, tốn kém rất lớn, nhân dân phục dịch rất khổ. Cao Sư Đảng là lớp thợ cả có tài, bị trưng tập lâu ngày làm chùa Thiên Bảo. Nhân làm việc căng thẳng, mệt nhọc, Sư Đảng thì thầm nói với nhóm thợ cùng làm, dở đùa dở thật: “nhà vua không có đức, các quan thi nhau ăn của đút lót, đưa bọn người bất tài lên những chức này, việc nọ, có gì gọi là thiện đâu mà làm chùa đồ sộ để cầu phúc”. Có người muốn tâng công, mách lại chuyện ấy với Lê Sát. Sát cả giận, tâu vua cho bắt chém đầu tức khắc Cao Sư Đảng. Bùi Cầm Hổ và những người khác cực lực can ngăn, nhưng cuối cùng, Cao vẫn bị Sát hành hình. Trong thời Lê Thái tôn, vua làm nhiều việc trái với di huấn của Tiên đế. Bằng mọi cách, ông và nhiều đình thần cật lực can ngăn; ngay đối với Lê Sát - tể tướng đương triều, làm nhiều việc sai trái, thao túng, lộng quyền, ông cũng đã dâng sớ hặc tội. Nhưng lúc đó, nhà vua đâu đã dễ dàng nhìn thấy. Dường như, sự có mặt của ông tại triều, nhà vua cảm thấy vướng. Đối với Lê Sát, sự có mặt của ông là một cản trở khó chịu. Cũng vì thế, ông đã bị Lê Sát biếm truất, đẩy ra trấn thị ở Lạng Sơn, hồi đó là vùng “ma thiêng nước độc” ghê gớm. Một thời gian, sau khi Lê Sát phạm tội, ông mới được triều đình triệu về phục chức. Thủ đoạn trù dập của Lê Sát là thế, ông vẫn không vì thế lấy đó làm điều. Khi Lê Sát bị tội, nhà vua lệnh chém bêu đầu. Ông đã can vua không nên áp dụng hình phạt đến mức đó đối với một đại thần, từng làm phụ chính, vốn đã có công đánh giặc. Trong việc chọn người cộng sự, ông cất nhắc trước hết những người trung trực, kiên quyết, dám nói sự thật, bảo vệ lẽ phải. Trần Hiển nguyên là chuyển vận sứ. Ở huyện ấy, có một nhánh sông cũ; lâu nay, đó là đường vận chuyển thuận tiện cho thuyền bè qua lại. Tổng trảm Lê Hiêu cậy mình có uy quyền, sai lấp đoạn sông ấy, chuyên làm của riêng. Việc chiếm đoạt ấy đã làm cản trở giao lưu đi lại. Trần Hiển đã dâng sớ tố cáo Lê Hiêu. Thái độ làm việc cương trực thẳng thắn của Hiển được nhân dân trong huyện ca ngợi. Những người có phong độ như vậy, có thể làm việc ở cơ quan giám đài, Bùi Cầm Hổ đã tâu xin nhà vua đề bạt Hiển làm thị ngự sử. Đại Việt sử ký đã chép khá nhiều và và khá đầy đủ những việc ông làm đại để là thế (6) . Sự ghi chép ấy, hiển nhiên xác nhận những việc ông làm là đúng đắn.
Dẹp xong giặc Minh, nhà Lê hăm hở bắt tay xây dựng đất nước. Trên bước đường xây dựng chế độ tập quyền chuyên chế của nhà nước phong kiến đang đà thịnh đạt, đã xuất hiện những mâu thuẫn vốn có của nó. Nội bộ triều đình vua Lê lần lượt hình thành những sự nghi ngờ, đó kị, dẫn đến dèm pha, vu khống, tìm cách loại bỏ, trừ khử lẫn nhau giữa nhà vua với khá nhiều công thần, giữa công thần với bọn quyền thần, giữa những danh thần có tài năng đức độ với bọn gian thần, dùng mọi thủ đoạn gian hiểm nhất để thanh trừng, lật đổ người không ăn cánh. Hàng chục vị tướng lĩnh cócông lao sự nghiệp lớn như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo ... lần lượt bịsát hại. Trong vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc”. Đương chức ngự sử, chứng kiến trước cảnh tượng ngang trái, oan ức ấy, thái độ Bùi Cầm Hổ ra sao? Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào làm căn cứ để giải trần những phân vân có lí trong câu hỏi này. Thời ông cònt hượng tại, cũng như khi ông đã mất, cho đến ngày vụ án “Lệ Chi” đã được phanh phui sự thật, trong chính sử cũng như trong dạ sử, truyền thuyếtvẫn không h ề có một câu nào chê trách ông trong các vụ án phi lí này. Phải chăng, quyền độc tôn, vô thượng của nhà vua lúc bấy giờ, chức trách công minh của ngự sử cũng trở thành vô nghĩa. Hơn 3 thế kỉ sau khi ông mất, khảo sát lại hàng ngũ quan chức thời Lê sơ, nhà sử học vừa là nhà bác học Lê Quý Đôn đã thận trọng nhận xét: Bùi Cầm Hổ một trong những sĩ phu “luôn luôn trung trực, chính đáng phong độ cao đẹp, chẳng những giúp nhà vua tiến theo con đường đạo đức mà bọn công thần, võ tướng đều phải nể sợ, không dám làm càn”(7) . Hoàng giáp Bùi Huy Bích, thời gian làm hiệp trấn Nghệ An đã hai lần đến dâng hương đền ông, viết hai bài ký nói về sự nghiệp, chính tích Bùi Cầm Hổ. Bài ký có đoạn: “Ông – (tức Bùi Cầm Hổ – ND) từng đi sứ Trung Quốc, trấn thị biên cương, lấy chính đạo ứng xử mọi việc triều chính; nói năng, bàn bạc công việc thẳng thắn, dứt khoát, đáng phong tiết của người đương chức ngự sử. Ông từng được người đời ngợi khen là bậc hào kiệt trong lớp sĩ phu đương thời”(8). Tự Đức là ông vua thường rất khắt khe khi nhận xét triều thần, cũng đã phải thừa nhận Bùi Cầm Hổ là con người dám vung bút đài Ngự sử để ức chế bọn cậy quyền thế “Bá đài trâm bút ức quyền hào”(9). Đối với nhân dân, trước hết dân làng sở tại, ông có mối liên hệ gắn bó, gần gũi, sâu nặng, dài lâu đặc biệt hiếm thấy. Trong xưng hô, dân làng nhất tề gọi Bùi Cầm Hổ bằng “ông” với nghĩa quê mùa thông thường: ông – cháu. Từ xưa, đối với tầng lớp quan gia, người ta thường gọi theo phẩm hàm, chức tước. Cách xưng hô kính trọng và “quan cách” ấy gần như đã trở thành một thông lệ: cụ Thượng, cụ Hường, quan án, quan Ngự... Đối với Bùi Cầm Hổ, người ta không hề gọi ông như vậy. Đền thờ ông, người ta gọi “Đền Ông”, ngày giỗ ông, gọi “Kỵ Ông”. Khi cần phân biệt ngôi đền này khác ngôi đền kia, người ta gọi “Đền Đức Thánh” hoặc “Đền Đức Thánh Đô Đài”. Tên Đền Đô Đài là cách gọi chung của cả vùng ấy.
Đền thờ Bùi Cầm Hổ ở Đậu Liêu - Hồng Lĩnh
Vùng Nghệ Tĩnh xưa, trong dân gian, có hai cái tên nôm na, dân dã, dành riêng để gọi 2 vị quan to cùng quê, cách gọi ấy không dùng để gọi bất cứ một ai khác: “Ông Đô Đài” để gọi Ngự sử Bùi Cầm Hổ và “Cố Lớn”để gọi tổng đốc Nguyễn Công Trứ. Ông và Cố chứ không hề gọi bằng “cụ”. Hẳn do sự đối xử giữa hai ông với nhân dân trong vùng bình dị, chan hoà đến mức, khiến họ không nỡ gọi hai ông bằng “cụ”, bằng “quan” chăng? Bằng cách gọi ấy, tuy ở hai thời điểm khác xa nhau, ngẫu nhiên có sự trùng hợp rất lí thú đối với hai con người: một “tổ sư đắp đập” và một “tổ sư khẩn hoang” trên vùng quê này và trong cả nước.
Tiểu sử, hành trạng Bùi Cầm Hổ, trong sử sách, gia phả chép khá đầy đủ, rõ ràng; nhưng khi đi vào dân gian, trên nhiều mặt, ông đã được dân gian “huyền thoại hoá”. Đã có khá nhiều chuyện kể về ông: khi sinh ông, hổ gầm thét sau nhà, ông được đặt tên “Hổ” là vì thế, khi đi sứ ở Tàu, hễ xong một động tác lạy, ông lập tức làm xong một bài thơ(9). Cũng chuyện dân gian, thuở nhỏ, ông là chú chăn thuê bò đàn, mưa nắng dãi dầu trên đồi Hồng Lĩnh, “thung dung nhàn hạ, ai sánh được “ông bầy” (vè) và, khi về già, ông là một lão nông thực thụ, cùng với dân làng “hai sương một nắng”, đắp đập, vỡ hoang bên sườn đồi Ninh Xá” (10) Trong dân gian, ông vừa là con người phi thường – một “đức thánh”, cũng vừa là con người bình thường dân dã. Sự không muốn tách ông ra khỏi hàng ngũ thường dân, đứng ngoài và đứng trên tầng lớp ấy, đó là ý muốn của mọi người hay ý muốn từ đáy lòng của chính Bùi Cầm Hổ.
*
Ô đài thuở trước lừng phong tiết Bạch Tỵ ngày nay nức khói hương Ngôi đền thờ ông, sách Hiến Chương ghi nhận “đó là dấu tích linh thiêng của bậc danh thần”, là “nơi được phong thờ thịnh hơn cả một phương”. Lễ hội Đô đài, còn gọi là “Lễ Báo Ân” là một trong những lễ hội lớn từ xưa ở xứ Nghệ. Nó mang những nét đặc sắc, độc đáo, hiếm thấy ở bất cứ lễ hội nào. Thứ nhất, lễ hội cứ 50 năm được tổ chức một lần, gọi là Đại lễ hội. Khoảng cách giữa hai kỳ Đại lễ hội là nửa thế kỷ, gần hai đời người. Dường như trong cả nước chưa có một lễ hội nào có khoảng cách dài đến mức ấy. Thời gian mở lễ hội kéo dài hay rút gọn 5 hoặc 3 ngày đêm tựy
theo năm ấy mùa màng được hay mất. Các nghi lễ và hội hè vui chơi, trừ việc dựng đình đụn và hát trò (diễn tuồng) là đặc biệt, các hình thức khác, đại để đều giống như lễ hội các nơi: rước kiệu, chơi cù, đánh vật... Khi chưa đến kì hạn Đại lễ hội, hàng năm vẫn được dân làng tổ chức tế lễ tại đền vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch, đúng ngày giỗ hàng năm của ông. Từ sau ngày ông mất cho đến nay, đại lễ hội cũng như tế lễ hàng năm đều được cả làng tổ chức kính tế đều đặn, trang nghiêm, kính cẩn hơn cả ngày giỗ của ông bà cha mẹ của mỗi người dân.
Thứ hai, dựng “đình đụn” hát trò là nét đặc trưng nổi bật của lễ hội. Thông thường nhiều nơi dựng rạp để tế, ở đấy dựng đình chỉ để diễn tuồng. Vì thế, lễ hội Đô Đài còn có tên gọi “Hội Đình đụn”. Đình được thiết kế theo một kiễu mẫu riêng biệt: 4 cột cái bằng lim, nối liền với hệ thống cột quyết, trên có mái che, dưới có lát gỗ. Có lẽ, đình làm theo kiểu nhà kho, nhà lẫm, nên có tên gọi “Đụn” chăng? Đình được lắp ghép lập thành, cất chỗ quy định. Khi đến kỳ đại lễ hội, đình được mang ra lắp ghép, dựng trước sân đền, bên bờ hữu ngạn Khe Vẹt, ngọn khe thời xưa ông đào để dẫn nước. Từ đó khe này còn có một tên mới khác: Khe nhà trò. Đình có khuôn viên đủ rộng: gian giữa dành để biểu diễn, 4 xung quanh, dân làng nam, phụ, lão, ấu đủ ngồi xem hát. Bài vè “Đình đụn” khá dài, đang được truyền tụng ở vùng này, đã giúp ta hiểu thêm quy mô và cách sắp xếp của nó. Cột đình nay đang còn. Đây là một công trình văn hoá, loại di vật văn hoá quý hiếm, cần được gìn giữ, bảo tồn.
*
Bùi C ầm Hổ với toàn bộ sự nghiệp, nhân cách, đức độ và phong tiết của ông đã tạo nên tấm gương sáng ngời về đạo lý truyền thống tốt đẹp; là những dấu ấn lịch sử hết sức sâu đậm để lại hậu thế, dài lâu không dễ phai mờ... Miếu mạo nghìn trùng cao vọi vọi Phương dân muôn thuở nhớ hoài hoài... Chúc rằng: Phúc hữu trùng lai!(5) Đó là lời chúc tụng thành kính của người xưa đối với ông. Đó cũng là tấm lòng của chúng ta đối với ông hôm nay.
V.H.H
___________________
1. Thơ Nôm đề đền Đô Đài của tiến sĩ Bùi Kim Quĩ quê Hải Dương.
2. Hiến chương, tập I, quyển VII Sử học HN’60
3. Gia phả họ Bùi - Đậu Liêu, sao lục năm Canh Tuất 1910
4. Bỉnh quân : cầm cân.
5. Thơ vịnh Đền Đô Đài của tiến sĩ Nguyễn Văn Trình quê Kiệt Thạch - Can Lộc: 3 bài chữ Hán, tác giả tự dịch Nôm theo thể ca trù.
6. Toàn thư (bản dịch) Tập III KHXH’72
7. Lê Quý Đôn toàn tập - tập III trang 166.
8. Bài ký “Bạch Tỵ Sơn thần quân chí lược” bản chữ Hán, chép trong gia phả họ Bùi- VHH trích dịch.
9. Thơ vịnh Bùi Cầm Hổ trong tập Ngữ chế Việt sử tổng vịnh - VHH trích dịch.
10. Thiên Lộc phong thổ chí (bản chữ Hán - VHH dịch) .
11. Bài vịnh Đền Đô Đài, chữ Hán, chưa rõ tác giả, chép trong tập An Tĩnh sơn thuỷ vịnh -VHH dịch. Hiến chương, tập I, phần Dư địa chí, trấn Nghệ An.