Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025), Tạp chí Hồng Lĩnh số 227 tháng 7/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Chuyến đò định mệnh” của nhà thơ Lê Văn Vỵ
Đáy bể mò kim
Khi nghe Nhà giáo Ưu tú (NGUT) Nguyễn Duy Tiệp và Trần Hữu Doãn trao đổi ý tưởng cuốn sách về Liệt sĩ nhà giáo, tôi thúc giục các thầy nên bắt tay vào ngay, nếu trễ không kịp. Từ đó, thỉnh thoảng tôi được các thầy chia sẻ thông tin và tổ chức bản thảo một số bài viết.
Dòng sông thời gian lặng lẽ trôi qua năm tháng vô cùng nghiệt ngã cuốn chìm không ít sự kiện vào quên lãng. Chiến tranh, thiên tai, địch họa; mưa nắng thiên nhiên cũng như mưa nắng đời người; cuộc đời “bãi bể nương dâu”, công tác lưu trữ hồ sơ tổ chức cán bộ không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, nên, tìm kiếm thông tin liệt sĩ là công việc “đáy bể mò kim”. Lần đến trường cũ, cán bộ quản lý, GV cùng thời với liệt sĩ hoặc đã quá cố, hoặc đã chuyển công tác. Hồ sơ lưu giữ không có gì. Tìm đến Phòng truyền thống, may mắn có được chút ít thông tin tên tuổi, thời gian công tác đã quá may mắn. Tìm đến gia đình, người thân đã không còn, nếu có còn cũng nhớ nhớ quên quên. Vì lẽ đó, dẫu hoạch định các bước tiến hành, khâu nối mạng lưới từ Hội Cựu giáo chức (CGC) tỉnh đến huyện, xã, nhưng công tác thu thập thông tin không dễ dàng gì.
Ngày 20/5/2025, sau khi tìm được những thông tin cơ bản về liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ (1942-1967) quê quán Yên Hòa, xã Cẩm Hòa, huyện Cẩm Xuyên, nguyên GV trường cấp Ba Vĩnh Linh, tôi cùng thầy Tiệp, thầy Doãn đã khâu nối với thầy Đặng Hoài Liệu (Chủ tịch HCGC huyện Cẩm Xuyên), thầy Dương Văn Lâm (nguyên Phó Chánh Thanh tra Sở GD&ĐT Hà Tĩnh) tìm đến gia đình Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ thắp hương, thu thập thông tin cho bài viết.

Hội Cựu giáo chức thắp hương cho liệt sĩ nhân ngày 27/7
Đón chúng tôi là Nguyễn Hữu Tuấn (sinh năm 1989), cháu gọi Liệt sĩ Tứ bằng chú. Ông Nguyễn Hữu Thị (1909-1981) bà Lê Thị Vượng (1908-1990) sinh được 5 người con (4 trai một gái, bố Nguyễn Hữu Tuấn là con trai cả, Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ là con trai thứ 4. Bố mẹ và ba anh em trai đã mất, chỉ còn chị gái Nguyễn Thị Lạc (sinh năm 1938) còn sống ở thôn Minh Hòa, xã Yên Hòa, huyện Cẩm Xuyên. Cháu Nguyễn Hữu Tuấn hiện nay hương khói cho tổ tiên và chú ruột Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ. Những kỷ vật về chú ngoài bức ảnh thờ, bảng Tổ quốc ghi công không có gì khác. Ký ức về chú cũng không nhiều, vì lúc chú mất, Tuấn chưa sinh. Thắp hương cho Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tuấn và gia tiên họ Nguyễn Hữu, chúng tôi được cháu Tuấn dẫn đường đến nhà cô Nguyễn Thị Lạc. Bà Lạc con thứ 3, Liệt sĩ Tứ con thứ 4. Tôi khấp khởi hy vọng sẽ khai thác được nhiều chi tiết chân thực từ bà chị ruột. Ở tuổi 83, bà Lạc nhớ nhớ quên quên. Nhắc đến em trai nước mắt bà dàn dụa. Ký ức của bà về đứa em trai ruột thịt đứt nối. Chúng tôi kiên nhẫn, chờ đợi, khơi gợi từ những chi tiết nhỏ nhất để bà Lạc hồi ức về Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ. Và dẫn dần, qua những tư liệu thu thập được qua nhiều kênh, chân dung Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ đã hiện dần lên.
Chân dung Liệt sĩ Nguyễn Hữu Tứ
Nguyễn Hữu Tứ sinh ra trong một gia đình cách mạng. Bố từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND xã. Mẹ phụ trách Hội Phụ nữ xã. Anh trai đầu Nguyễn Tâm Nhuận (1928-1999) nguyên Phó Ty Công an Hà Tĩnh. Trong ký ức của bạn bè cùng thời, Tứ trắng trẻo, thông minh, trầm tính. “Tui (tôi) học cấp 1, cấp hai với em nó. Lên cấp 3, nhường em học. Tui ở nhà đi làm giúp bố mẹ”. Bà Lạc nhớ lại. Lên cấp 3, học tại trường cấp 3 Phan Đình Phùng, Thị xã Hà Tĩnh, Tứ xa gia đình, ở trọ tại xã Thạch Đài. “Em đi học thuận lợi, vì có anh trai làm ở Ty Công an lo ăn uống cho đến sách vở bút giấy”. Bà Lạc kể. Thời gian học cấp 3 Phan Đình Phùng, Tứ được học với các thầy giáo lừng danh. Tứ say mê, có năng khiếu các môn Tự nhiên và ao ước sau này trở thành thầy giáo. Tốt nghiệp lớp 10, Tứ nạp đơn vào ĐHSP Vinh. “Hồi đó, cả xã Yên Hòa chỉ có 2 học sinh đậu vào Đại học. Đó là Tứ và Nguyễn Tế Nhị (con ông Nguyễn Đắc Huỳnh. Nhị đầu đơn vào ĐH Thương mại”. Thầy Đặng Hoài Liễu (Chủ tịch HCGC) Cẩm Xuyên thông tin.
Tốt nghiệp ĐHSP, Tứ được phân công vào công tác tại trường cấp Ba Vĩnh Linh. Năm 1964, bị thua to ở miền Nam, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nhằm “kéo miền Bắc về thời đồ đá cũ”. Khu Bốn trở thành “chảo lửa túi bom”. Nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, “tay cày, tay súng”. “Giặc đến là đánh, giặc đi là sản xuất” đã làm phá sản ý đồ quân xâm lược. Ngày 13/7/1967, đế quốc Mỹ đem máy bay B52 rải thảm cày nát Vĩnh Linh. Để bảo toàn lực lượng và tính đến chiến lược lâu dài, một mặt dân quân, du kích, nhân dân Vĩnh Linh tàng ẩn vào địa địa đạo sâu trong lòng đất, một mặt di chuyển các em học sinh đến vùng an toàn như Tân Kỳ, Nghệ An, Thanh Hóa. Thầy Trần Hữu Doãn đã kết nối với trường cấp Ba Vĩnh Linh và được nhà trường cung cấp tư liệu về thời kỳ di dời “có một không hai” ấy. Đó là cuộc “trường kỳ kháng chiến” giữa mưa bom bão đạn, vì “lợi ích 100 năm trồng người”.
Năm đầu tiên về công tác tại Trường cấp Ba Vĩnh Linh, thầy Nguyễn Hữu Tứ được giao nhiệm vụ đi tiền trạm để chuẩn bị đưa 400 học sinh tập kết ra Tân Kỳ. Từ Vĩnh Linh, qua Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ. Làm sao để đưa được các em học sinh tập kết đến Tân Kỳ một cách an toàn không hề dễ dàng. Gần 500 km, hàng chục trọng điểm không ngớt bom đạn. Bà Lạc nhớ lại: “Hôm ấy, khoảng 9 hay 10 giờ sáng, cậu Tứ và một người bạn nữa lai nhau xe đạp về nhà. Sau tôi mới biết, người cùng đi là em Thiện, học sinh lớp 9. Thầy trò to cao như nhau. Hai thầy trò ngủ lại một đêm, sáng mai ăn sáng rồi ra đi, đến chiều, gia đình choáng váng nhận được tin em trai và học trò đã hy sinh”. Bà Lạc nước mắt dàn dụa.
Trong sổ tay anh trai Nguyễn Tâm Nhuận còn ghi ngày 21/9 dl (tức ngày 18/8 âm lịch) hai thầy trò Nguyễn Hữu Tứ hy sinh trên đường làm nhiệm vụ tại bến đó Tàng (Đức Lạng, Đức Thọ). Khâu nối nhiều thông tin khác, chúng tôi được biết, năm 1967, dọc sông Lam, sông La, bờ biển, giặc Mỹ thả ngư lôi nhằm ngăn chặn chi viện của hậu phương miền Bắc với miền Nam. Đò Cánh Tàng, bến đò ngang sông Ngàn Sâu qua Đức Lạng là địa điểm giặc Mỹ thả ngư lôi.
Tháng Tám, mùa mưa, nước từ Ngàn Trươi, Ngàn Sâu đổ về mênh mông. Xế chiều, hai thầy trò, vác xe đạp lên đò ngang. Trời nổi lốc. Mưa. Nước duềnh lên. Người lái đò không làm chủ được mái chèo. Thuyền trôi vào bãi thủy lôi. Tiếng nổ xé nước. Thuyền tan tành. Thể xác hai thầy trò và người lái đò hòa vào sông nước. Mãi mãi thầy Tứ tuổi 25 và học sinh Thiện 17 tuổi. “Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.
Người ta nói: “Thầy giáo là người lái đò…”. Hình ảnh con thuyền tri thức ám ảnh đi suốt cuộc đời không chỉ riêng tôi. Con thuyền định mệnh trong hoàn cảnh cụ thể của thầy trò Nguyễn Hữu Tứ cho tôi suy ngẫm thêm về biểu tượng con thuyền mà mỗi lần nghĩ về, lòng ta không khỏi bùi ngùi thương nhớ… Cháu Nguyễn Hữu Tuấn lau nước mắt xót xa: “Hiện nay, gia tộc đã xây cho chú phần mộ trong nghĩa trang, nhưng cũng chỉ là “mộ gió” thôi!”
Chúng tôi lặng lẽ, nhìn ra ngoài. Như nghĩ ra điều gì, bà Lạc mấp máy đủ mình nghe “Thương lắm. Răng nỏ về ăn kiệu nà!? Chỉ thương con Cúc!”. Tôi khơi gợi “Sinh thời cậu Tứ thích món gì?”. Như chợt nhớ ra, bà Lạc khẽ khàng:” Khoai với cà, kiệu”. Vâng đấy là món đặc sản của vùng quê bãi ngang. “Thưa bà, bà vừa nhắc đến Cúc, vậy Cúc là ai?”. Tôi hỏi. Phải một lúc, bà Lạc mới sực nhớ: “Người yêu cậu. Cúc con cố Thu”. Được biết, mê Tứ học giỏi, lại hiền lành, Cúc đem lòng yêu. Sau khi Tứ hy sinh, Cúc năng đi lại, săn sóc, an ủi gia đình bố mẹ người yêu. Khi yêu nhau, Tứ ngỏ lời: “Anh đi sư phạm và sau này em cũng đi sư phạm. Chúng mình cùng làm nghề lái đò em nhé!”. Nhớ lời Tứ, Cúc đầu đơn vào sư phạm và trở thành cô giáo. Cúc biết, dẫu Tứ không còn, nhưng trên chuyến đò tri thức, linh hồn anh luôn trở về động viên, chia sẻ, phù hộ độ trì cho đồng nghiệp, học sinh và cho Cúc…
Có dịp ghé qua Đức Thọ, thế nào tôi cũng trở về bến Tàng. Nơi bến đò xưa giờ đã bắc cầu. Nhưng chẳng hiểu căn nguyên gì mà trên bến đò ngày xưa, phượng vĩ xanh tốt, chớm hè đã bung hoa. Màu đỏ bông phượng nơi đây như giọt máu. Cư dân bên sông kể rằng, cứ hoàng hôn, nhìn mặt sông, loang loáng sắc tím bầm.
Vào đêm khuya 14, nhìn trên sông lãng đãng con thuyền như ánh trăng, chở hai người mặc áo trắng ngồi đọc sách, rồi mất hút vào sương khói huyền hoặc…
Hà Tĩnh, 22/5/2025
L.V.V