02-08-2012 - 09:34

Về một chữ trong bài thơ của Phạm Tiến Duật

VỀ MỘT CHỮ TRONG  "BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH"   
   
                                                                                

                "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" là một thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ Phạm Tiến Duật viết vào những năm chống Mỹ ác liệt nhất của bộ đội ta ở tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình Văn học THCS chỉnh lý(1995). Nhiều nhà soạn sách tham khảo cho GV và HS đã viết những bài phân tích, bình giảng công phu về nó. Năm 2001, báo GD-TĐ đã tổ chức một đợt bình thơ trong nhà trường và có hàng chục người tham gia bình bài thơ này. Trong hàng chục bài phân tích bình giảng từ trước tới nay về bài thơ, bài viết của GS Trần Đình Sử đã gây cho chúng tôi những ấn tượng thú vị. GS đã có những phát hiện đáng kể về nội dung và nghệ thuật bài thơ. Tuy nhiên, trong bài viết của mình, GS đã có một ý kiến làm cho chúng tôi băn khoăn. Khi phân tích khổ thơ cuối, ông tỏ ý chê Phạm Tiến Duật non tay trong việc dùng chữ xước ở câu thơ "Không có mui xe thùng xe có xước".Cụ thể, ông viết như sau: "Khổ thơ thứ bảy, kết bài, nêu lên hình ảnh về những thử thách ngày càng nhiều, càng ác liệt. Chỉ tiếc chữ "xước" hơi nhẹ quá:..." [1-tr. 400; 2-tr. 150]. Qua câu này, chúng ta thấy rằng: nhà phê bình có sự ngập ngừng, lúng túng; tuy chê nhưng lại không dám thẳng thắn nên câu văn mới bị vi phạm lỗi diễn đạt như vậy( trước hoặc sau tính từ "nhẹ" chỉ có thể dùng một trong hai phó từ "i" hoặc "quá"). Chúng tôi băn khoăn vì hai nhẽ: một là, chẳng nhẽ một người viết có học vấn ngữ văn ở trình độ đại học, một nhà thơ vốn được coi là "một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ " [3-Tiểu dẫn,tr. 42] như  anh Duật lại hớ hênh, cẩu thả đến thế sao? Hai là, chẳng nhẽ bộ GD-ĐT lại chọn vào chương trình Văn học phổ thông một sản phẩm văn chương có tỳ vết về câu chữ như vậy cho học sinh học hay sao?  Nói thế, chắc có người sẽ bắt bẻ: ôi dào, ông chỉ hay vẽ chuyện, như con người là sản phẩm kỳ diệu của tạo hoá mà đến bậc vĩ nhân còn "nhân vô thập toàn" huống hồ văn chương là thứ "tự cổ vô bằng cứ " ? Xin thưa: nếu là vấn đề nội dung tư tưởng, vấn đề các lớp nghĩa sâu xa, ẩn tàng, trừu tượng ở tầng siêu ngôn ngữ của văn bản thì có thể nói như vậy, nhưng đây lại là vấn đề chữ nghĩa, vấn đề ở tầng biểu đạt nội dung sự vật, sự kiện mà theo như cách nói ở trên của GS-TS Trần Đình Sử, chuyên gia hàng đầu của ngành lý luận văn học nước nhà hiện nay, thì bài thơ này còn đâu là mẫu mực về sự  chính xác, trong sáng, hay ho, đẹp đẽ của tiếng Việt để mà dạy cho học trò? Bởi tuy là tỳ vết đó nằm ở một chữ, nhưng trong tính tương tác hệ thống của toàn bộ câu chữ bài thơ, trên mọi cấp độ ngôn từ, thì hậu quả của nó là "con sâu làm rầu nồi canh".Trong lịch sử văn học nhân loại đã có nhiều giai thoại cho hay: có khi chỉ vì thay đổi một chữ mà quyết định cả vận mệnh một bài thơ. Hẳn người đọc yêu văn học Trung Hoa, không mấy người là không biết câu chuyện nhà thơ Trịnh Cốc đời Đường đã sửa cho nhà sư Tề Kỷ chữ sổ thành chữ nhất, khiến bài thơ "Tảo mai" của Tề Kỷ trở nên nổi tiếng và Tề Kỷ đã cúi đầu bái tạ mà gọi Trịnh Cốc là "nhất tự sư" (thấy một chữ)                                   
Kỳ thực, ban đầu, chúng tôi đã chia sẻ với ý kiến trên của GS Trần trong một tâm trạng bức xúc như thế. Nhưng sau đọc kỹ bài thơ nhiều lần, lắng nghe thật rõ âm hao của nó, thì lại ngờ ngợ. Chúng tôi bèn đọc lại tập "Vầng trăng và những quầng lửa" ( Nxb Văn học-1983), tuyển những bài thơ anh Duật viết chủ yếu trong giai đoạn ở Trường Sơn thì biết chắc rằng mình nhầm. Phong cách thơ Phạm Tiến Duật, như nhiều nhà nghiên cứu đã xác nhận, là tinh nghịch, tếu táo mà lại rất có duyên. Trong cấu tứ, anh chú ý nhiều đến các nghịch lý được phát hiện trong cuộc sống. Cách nói tưng tửng cứ như không trước mọi sự kiện, vấn đề trọng đại kết hợp với tứ thơ được xây dựng bằng nghịch lý có sức ám người đọc ghê gớm. Hẳn người đọc một thời chưa quên được những câu thơ thú vị này của anh:
..."Thế đấy, giữa chiến trường                                           
     nghe tiếng bom rất nhỏ"
                              (Tiếng bom ở Seng Phan)
... "Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang
     mà không biết con dèo chạy dọc"...
                               ( Đèo Ngang)                                                                                                    
           Như vậy, cần phải hiểu câu chữ của Phạm Tiến Duật trong cái trường phong cách nói trên của anh. Phong cách là một yếu tố siêu ngôn ngữ, chi phối một cách có ý thức và cả vô thức đối với mọi sự lựa chọn phương tiện và phương thức nghệ thuật của người viết. Trong lịch sử văn học, có một thực tế sau đây: có những phương tiện ngôn từ, khi xét trong tổ chức ngôn ngữ bình thường của văn bản thì tầm thường, phi lý nhưng nó lại phi thường, lại rất có lý khi xét trong trường phong cách, trong cấp độ siêu ngôn ngữ. Với cái chữ  xước "phiền hà" của anh Duật cũng vậy.Trước hết, xét về ngữ cảnh câu thơ thì việc dùng chữ xước quả là khó chấp nhận. Chiếc xe không kính, không đèn, không mui vì bom đạn kẻ thù đã bao lần băm xé thì chắc chắn cái thùng xe khó bề nguyên vẹn đến mức chỉ  xước, tức là bị sây sát nhẹ, không đáng kể. Và cũng trong ngữ cảnh này, nghĩa của chữ xước chỉ có thể hiểu như vậy cả về tiền giả định và nghĩa tường minh. Vị chuyên gia thi pháp học đã dựa trên những căn cứ ấy để  "tiếc" cho nhà thơ của bộ đội Trường Sơn. Với cách hiểu theo lô-gích cuộc sống như thế, thì cái chữ "xước" đó hoàn toàn phi lý. Tuy nhiên, có ba lý do khiến chúng tôi tin rằng đây không phải là sự lỡ tay của một người thợ lành nghề.Thứ nhất, Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này khi anh đã thực sự trưởng thành về mọi mặt trong nghề thơ. Thứ hai, bài thơ này đã được in đi in lại nhiều lần trong nhiều tuyển tập và cũng đã hơn một lần được nhiều người phân tích bình giảng. Thứ ba, nó lại không có khả năng rơi vào trường hợp bị nhầm lẫn tai hại về chính tả nhiều năm như một chữ trong thơ của Tố Hữu " Người đi quần (quấn)áo chen chân"("Tiếng hát đi đày"). Vậy có phải do tác giả bí vần mà dùng chữ xước hay không? Trong quá trình sáng tác, đúng là có nhiều trường hợp do bí vần, nhất là thơ luật, và tác giả lại là người quá câu nệ, nên dùng chữ rất ép. Song Phạm Tiến Duật và bài thơ này thì lại không nằm trong tiền lệ trên. Thơ anh chủ yếu viết theo thể tự do, nặng về điệu nói nhưng rất giàu nhạc điệu. Có điều nhạc điệu đó không phải chủ yếu là do vần mà là do anh triệt để vận dụng nguyên lý song hành trong việc tổ chức dòng thơ, câu thơ, khổ thơ kết hợp với việc ngắt nhịp theo lối điệp cấu trúc đặng tạo nên. Vả chăng đây lại là khổ thơ kết nên việc tăng cường nhạc tính( trong đó có việc bắt vần) là rất cần thiết.
          Mặt khác, việc dùng chữ trước để kết thúc dòng thơ tiếp sau "Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước"là tất yếu, là yếu tố cố định hoá trước cho sự hình thành một bộ phận của một cấu trúc . Đó chính là tiêu vận mà dòng thơ trước phải theo. Cứ theo ý kiến của GS Trần Đình Sử mà giả định rằng việc dùng chữ xước là non tay thì Phạm Tiến Duật còn những khả năng lựa chọn nào nữa không? Còn! Còn một khả năng: đó là từ rách tướp, khả dĩ đáp ứng về yêu cầu âm vận và xét về khả năng biểu đạt theo hướng cấu trúc hoá thực tại khách quan thì cao hơn từ xước nhiều. Đây  là những từ dùng thường xuyên đầu cửa miệng của cánh lính lúc bấy giờ, nhà thơ lại là người trong cuộc nên chẳng cần phải vò đầu, bứt râu tìm kiếm. Một con người thông minh, giàu vốn sống chiến trường, mẫn cảm và sắc nhọn ngôn từ như Phạm Tiến Duật thì khi lựa chọn câu chữ ắt phải nghĩ đến từ này( rách tướp ). Vậy mà Phạm lang vẫn dùng  chữ xước. Chắc là phải có cơn cớ chi đây? Thực ra, bài thơ có tính hiện thực cao, nhưng không phải câu chữ nào cũng mang tính hướng ngoại. Với chữ xước cũng vậy, Phạm Tiến Duật không nhằm mô tả tình trạng khách quan của cái thùng xe mà cái đích của chữ này là bày tỏ một thái độ. Đó chính là thái độ bất chấp, ngang tàng của anh bộ đội cụ Hồ thời chống Mỹ. Về chức năng nghệ thuật, với chữ này tác giả đã bổ sung thêm một nét phục bút do chính anh đã kỳ công đặt vào dòng cuối ở khổ thơ thứ nhất:..."Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Người lái xe nhìn thẳng, "con đường chạy thẳng vào tim". Chính cái nhìn ấy đã tạo nên không khí lạc quan, hội hè trong bài thơ này cũng như trong các bài thơ thời chống Mỹ khác của Phạm Tiến Duật. Cái "nhìn thẳng" đó đồng thời cũng là cái nhìn bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy. Bởi thế, chiếc xe trần trụi đến mức trông rất tiếu lâm đó "Lại đi, lại đi trời xanh thêm". Thiển nghĩ, nếu tác giả dừng lại ở dòng thơ này thì cũng có thể dứt lời, đạt ý để tạo thành một bài thơ hay. Nhưng cuộc chiến vĩ đại chống Mỹ đã nâng dân tộc ta lên vị trí cao nhất trên tầm thời đại, cho nên bên cạnh cái phong cách ung dung, thích thảng như đi trảy hội của người ra trận, trong thơ kháng chiến đương thời, còn đậm một nét phong cách nữa là thích triết lý, hay khái quát hoá. Và "Bài thơ về..." có lẽ là sự thể hiện xuất sắc của quy luật trên. Lẽ thường, khái quát hoá dễ dẫn đến khô khan, nặng nề. Trong khi đó, qua sáu khổ thơ, ngòi bút của tác giả đã tung tẩy đưa tiểu đội xe không kính đi qua Trường Sơn gian khổ, ác liệt một cách hồn nhiên, nhẹ nhàng. Nếu khổ kết lại chính luận, lại hô hào thì bài thơ hỏng mất! Và Phạm quân đã chọn được cách nói quá hay, rất hợp lý, hợp khí, khiến cho huyết mạch bài thơ lưu thông mạnh mẽ, nội lực thẩm mỹ-tư tưởng bài thơ càng phát sinh dồi dào. Đó là lối nói bồi thấn: nhắc lại, có thể bằng hình thức diễn đạt khác, để nhấn mạnh những ý cơ bản đã được triển khai trong phần trước của văn bản. Tuy nhiên, nếu không có nét phục bút bổ sung nói trên, thì sẽ không thực hiện được lối kết bồi thấn này. Bởi sau chổ phục bút ở khổ thơ đầu thì năm khổ tiếp theo tác giả đã tung hoành khởi bút triển khai tứ thơ một cách toàn diện, đầy đủ. Bây giờ nếu chỉ là sự tóm tắt ý tứ        (dẫu rất hình ảnh) một cách đơn thuần thì thực là vô duyên. Tác giả tiến hành giải quyết mâu thuẫn này trước hết bằng thao tác đối lập hoá, tương phản hoá giữa cái không và cái . Để nhấn mạnh cái ác liệt của cuộc chiến, tác giả trương ra hình ảnh chiếc xe với ba cái không. Dù tàn tạ đến đâu nhưng những chiếc xe ấy còn thực hiện được chức năng tải hàng của chúng thì dứt khoát chúng phải có thùng. Thực tế, những chiếc xe tải thời chiến này không mấy chiếc thùng không bị rách nát. Tác giả buộc phải nói giảm là có xước cho phù hợp với lối nói tưng tửng, tếu táo trong toàn bài. Ngoài ra, cách nói khinh từ từ đó còn nhằm gây hiệu ứng thẩm mỹ trong sự tương tác với chính những cái không nói trên.y chính là hiệu ứng lạ hoá do sự phi lý, xét theo cách hiểu thông thường, tạo nên. Cái làm nên hình ảnh trọn vẹn về chiếc xe ô tô quan trọng nhất là kính, đèn, mui nhưng nay nó chỉ còn mỗi cái ca-bin trống huếch, trống hoác trông như chiếc xe thổ mộ thì rõ ràng cái thùng có xước hay rách tướp, dập nát nào có đáng để ý gì. Chính từ cái ẩn ý này, nhà thơ đã khởi bút để nêu bật mục đích và động lực của chiếc xe:
                  ..."Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước                                                                            
                      Chỉ cần trong xe có một trái tim."                                                          
         Như vậy, cái nhìn thẳng ở khổ thơ đầu đến đây đã lộ hình tích: con đường chạy thẳng vào tim là bởi chiếc xe độc đáo này do trái tim cầm lái. Kết cấu chung của bài thơ là đầu cuối tương ứng, suốt dọc từng câu thơ, khổ thơ luôn có sự hô ứng, phục khởi, luyến láy, hồi hoàn. Riêng nét phục bút bổ sung và lối kết bồi thấn ở khổ thơ cuối vừa phát huy hiệu năng của kiểu kết cấu trên lại vừa có giá trị độc lập của nó. Với sự khái quát đó, với cái chữ xướcdung dị và pha chút uy-mua đó, bài thơ thực sự đã được nâng lên một tầm cao mới./.                                                                                                                                                                                          

                                                                                     Can Lộc,  30-4-2003
       PHẠM QUANG ÁI      

Chú thích:
1-TRẦN ĐÌNH SỬ (chủ biên)-PHÂN TÍCH-BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM VĂN HỌC 9 - Nxb     
GD-HN-1999
2-TRẦN ĐÌNH SỬ-ĐỌC VĂN HỌC VĂN-Nxb GD-HN-2001
3-VĂN HỌC 9-Nxb GD-HN-1999

. . . . .
Loading the player...