Văn nghệ Hà Tĩnh hân hạnh giới thiệu bài viết Di tích lịch sử Miếu Ao của tác giả Nguyễn Nga.
DI TÍCH LỊCH SỬ MIẾU AO
Miếu Ao thuộc làng Nhụy Uyên, nay là thôn Đồng Khánh, xã Thạch Trị (thành phố Hà Tĩnh) từ lâu đã trở thành một địa điểm văn hóa tâm linh, thu hút đông đảo du khách thập phương về hành hương và chiêm bái.
Miếu Ao thờ Tam Lang Long Vương, nằm trên một cái ao khá rộng nên Nhân dân thường gọi là Miếu Ao. Miếu Ao xây dựng vào thời gian nào đến nay chưa rõ nhưng nếu theo sách “An Tĩnh cổ lục” của Hippolyte Le Breton thì muộn nhất cũng đã có gần 600 năm.
Theo sách “An Tĩnh cổ lục” chép: Dân gian truyền lại rằng trên đường đi đánh Chăm Pa, thuyền của vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) bị mắc cạn tại nơi này. “Do sự tác động của một sức mạnh huyền bí, các mái chèo đều không cất lên được và gió tự nhiên dừng lại một cách bất thường. Sau khi đã hỏi dân sở tại về lý do của hiện tượng này, nhà vua sai tổ chức lễ tạ lỗi vị thần thành hoàng địa phương. Lập tức gió lại nổi lên và đẩy đội chiến thuyền đi một mạch đến đất Chăm Pa. Sau khi thắng trận trở về, nhà vua xuống chiếu cho thờ vị thần đã bảo hộ mình, theo đẳng cấp của các vị thần”1.
Lại có truyền thuyết cho rằng miếu thờ một vị thần rắn. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng: “Ngày xưa, trên bờ sông Rèn có một đôi vợ chồng nghèo tên là Đức Vương và Thanh Nữ. Hai vợ chồng ngày ngày xuống sông Rèn mò cua, bắt ốc, chăn trâu, cắt cỏ, mót khoai, để nuôi nhau. Hai vợ chồng cứ thế sống qua ngày. Một hôm, Đức Vương và Thanh Nữ nói với nhau, vợ chồng mình sống với nhau đã lâu nhưng không có con chúng ta nên cầu Trời, khấn Phật. Nhưng họ cầu cúng mãi cũng không có con. Một đêm tháng 6, Đức Vương nằm ngủ còn Thanh Nữ đi gánh nước. Khi đi tắt qua ruộng đất cày, thấy một ngôi sao bay qua mặt Thanh Nữ rồi bay xuống giếng. Khi Thanh Nữ thả chiếc mo cau múc nước, đột nhiên nước vỡ tung toé thành rất nhiều ngôi sao. Thanh Nữ gánh về đổ vào vại nước nhà mình, vại nước đầy sao. Sáng mai khi thức dậy, hai vợ chồng thấy một vại nước trong xanh và lấy nước đó để nấu ăn và thấy người ngày một khoẻ mạnh, trẻ ra. Một thời gian sau, nàng Thanh Nữ mang thai, sinh ra ba quả trứng nối liền nhau, sau nở thành một con Hoàng Xà có chân, có tay, có mắt, có mũi, vợ chồng sợ quá nhưng vẫn ấp ủ nuôi nấng… Ba tháng sau thì Xà Lang đi đứng được. Một hôm, Đức Vương vô tình xắn trúng Xà Lang đứt làm 3 khúc, máu chảy lênh láng. Đức Vương sợ quá chạy về gọi vợ và bà con chạy ra thì không thấy đâu nữa… Một đêm, Đức Vương nằm ngủ và thấy bà cô là Nương Nương đã mất hiện về bảo rằng: Các cháu cứ yên tâm mà làm ăn, đừng đau buồn vì đó là người của trời sinh ra, 3 khúc của Xà Lang chia thành 3 anh em, anh cả ở Cồn Hội, anh Hai ở Đại Hải, còn em thứ ba trôi về khúc sông Kèn ở làng Nhuỵ Uyên, tổng Hạ Nhất và dân làng đã lập đền thờ Tam Lang Long Vương ở đây (tức là Miếu Ao). Tuy nhiên, truyền thuyết này còn mang tính huyền thoại và ly kỳ, chưa có căn cứ khoa học, cần được nghiên cứu thêm”[2].
Tam Lang Long Vương còn có một nghĩa khác nữa là liên hệ với truyền thuyết thời Hùng Vương thì Tam lang là ba chàng Rồng, con Hùng Hải (em Hùng Vương thứ ba) do cha mẹ là Trang Hoa sinh ra trên một chiếc thuyền giữa ngã ba Bạch Hạc, sau làm Thủy Thần thường gọi là Nhất lang, Nhị Lang, Tam Lang long Vương. Tam Lang - Chàng ba là con của Vua Hùng.
Dựa vào tài liệu và truyền thuyết liên quan đến Miếu Ao thì chúng ta có thể khẳng định, đây là nơi thờ Thần Rắn – Thuỷ Thần, một tín ngưỡng từ thời xa xưa.
Miếu Ao có tổng diện tích khuôn viên là 15.682 m2; được bao bọc bởi cây cối xung quanh. Toàn bộ khu di tích gồm có các công trình: cổng chính; cổng thứ hai; cột nanh; hệ thống tường dắc, nhà quan tả, quan hữu và nhà che ngựa; tắc môn; nhà khách và cổng vào miếu; nhà bia; nhà hương; hạ điện; trung điện; thượng điện.
Cổng chính: rộng 2,76m, hai bên là hai cột trụ bằng nhau, xây bằng gạch, trát vôi vữa. Trụ cổng cao 2,20m, mỗi cạnh 0,35m, phía trên trổ hình một búp sen. Hai cột trụ 2 bên khắc 2 câu đối bằng chữ Hán, nội dung:
“Nhập môn hạ mã
Linh miếu Miệu Ao”
Nghĩa là: Vào đến cửa phải xuống ngựa
Đây là Miếu Ao linh thiêng
Cổng thứ hai: Từ cổng chính đi khoảng 27m đến cổng sắt thứ hai của di tích. Hai bên là hai cột trụ vuông xây bằng gạch. Khoảng cách giữa hai cột là 2,50m. Qua cổng thứ hai cách 3,60m là đến hệ thống cột nanh, nhà quan tả, quan hữu, nhà che ngựa đắp nổi được nối liền bằng hệ thống tường dắc đối xứng nhau, mỗi bên dài 11m.
Cột nanh: Hai cột nanh cổng xây bằng gạch, trát vôi vữa. Chân đế hai cấp, xây hình vuông. Nửa phía trên thân cột chia thành bốn thớt nối liền nhau, đắp gờ chỉ cầu kỳ. Mặt trước có khắc câu đối bằng chữ Hán, nội dung:
“Đức đại yên dân thiên, cổ thịnh
Công cao hộ quốc vạn niên trường”
Nghĩa là: Đức lớn yên dân ngàn năm thịnh
Công lao giúp nước muôn năm dài.
Hệ thống tường dắc, nhà quan tả, quan hữu và nhà che ngựa: Hai bên cột nanh dài bằng hệ thống tường dắc, đối xứng nhau, có các mái là những đầu đao công vút. Bên trong có tượng quan văn, quan võ, một tay cầm đao, một tay chống nạnh, chân đi dày cao cổ, mặc áo đại trào. Phía trước thân áo quan văn đắp nổi hình con cò, còn áo quan võ đắp nổi hình con cọp, tư thế rất oai vệ. Trước nhà quan hữu có câu đối:
“Quắc thước thị ông dạ
Trần ai vật bao chi”
Nghĩa là: Người quắc thước là ông vậy
Giữa trần ai không lầm lỗi”
Trước nhà quan tả cũng có có câu đối:
“Anh linh thiên cổ tại
Hiển hách tứ thời tân”
Nghĩa là: Ngàn xưa vẫn anh linh
Bốn mùa đều hiển hách
Tắc môn: cách cột nanh hơn 6m. Mặt trước của tắc môn có đắp nổi hình ảnh miêu tả sự tích “Cá chép hóa rồng”. Mặt sau của tắc môn đắp nổi hình một con ngựa đầy đủ yên cương, đầu ngoảnh lại phía sau xung quanh được tô màu vàng, xanh… Sau tắc môn, đi qua một sân đất dài 40m, rộng 4,50m, hai bên đường vào có nhiều cây cao bóng mát là đến khu vực chính của di tích.
Nhà khách và cổng vào miếu: Bên trái là nhà khách của miếu, ở giữa là một khoảng sân, bên trái là cổng cuối cùng dẫn vào miếu. Hai cột trụ hai bên cao 1,40m, vuông mỗi cạnh 0,30m, trên có đắp nổi hình hai búp sen. Khoảng cách giữa hai cột trụ rộng 1,50m. Xung quanh miếu có tường dắc bao quanh. Tường cao 1,10m, có trổ các lỗ dọc, hình dích dắc.
Nhà bia: Qua cổng, đến một sân được lát gạch nung khá sạch sẽ. Bên phải có nhà che bia cao 1,50m, rộng 2m, bốn góc mái vuốt đầu đao cong vút, trên có đắp nổi hình 4 con rồng quay vào nóc, trên nóc mái đắp nổi hình 2 con rồng chầu. Phía trong dựng một tấm bia đá. Nội dung của tấm bia ghi tên và số tiền của những người đóng góp để trùng tu tôn tạo miếu đời vua Tự Đức năm thứ 5, tháng 4.
Nhà hương: Bên trái là nhà đốt hương cao 1,30m, dài 0,90m, rộng 1,18m, mái lợp ngói mũi hài, bốn góc vuốt nhọn đầu đao, phía trên đắp nổi hình cá chép cách điệu thành rồng.
Hạ điện: có 3 gian, quay hướng tây, thông với Trung điện, gồm 10 cột trụ vuông lớn và 2 trụ nhỏ, làm bằng bê tông, vì kèo bằng chất liệu gạch, vôi vữa tạo cho ngôi nhà sự vững chãi; phía trên trang trí rồng, phượng. Mái có kết cấu hình vòm, trên lợp ngói vảy, bờ nóc đắp vữa trang trí rồng chầu mặt nguyệt. Trước Hương án đặt giá gỗ đựng đồ tế khí bằng gỗ. Trên cao và sâu nhất của Hạ điện có bức Hoành phi bằng gỗ đề 4 chữ Hán “Phúc địa chung linh”.
Trung điện: Từ nhà hạ điện, trổ hai cửa cao 1,86m, rộng 0,92m, hai bên thông sang trung điện. Nội thất trung điện gồm một cái giường lèo. Trên giường lèo xây một bàn thờ xi măng xây dựng theo kiểu tam cấp, trên đặt 4 bát hương bằng sứ. Đối diện với đường lèo là một cái bàn thờ gỗ, trên bàn thờ đặt 1 bát hương bằng thạch cao cũ, 2 con hạc gỗ 2 bên, 2 cọc nến bằng sứ, đặt trên một ô dài 0,50m, rộng 4,40m. Hai bên đắp nổi đôi câu đối nhưng nay đã bị mờ không đọc được nữa, bên cạnh mỗi câu đối đắp nổi hình rồng đang bay lượn rất sống động và tiếp theo đó là hình hai con chim hạc đắp nổi.
Thượng điện: nối với Trung điện hai cửa vòm hai bên, mái trát vôi vữa, bốn góc nhà vuốt nhọn đầu đao, trên bờ nóc trang trí rồng chầu mặt nguyệt. Nội thất thượng điện có bàn thờ xây xi măng, trên đặt một long ngai thờ bằng gỗ.
Miếu Ao kể từ khi xây dựng đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa và lần nào cũng được Nhân dân trong vùng với tấm lòng hảo tâm đóng góp để trùng tu tôn tạo. Theo bia đá đặt trong nhà bia và các bản gỗ trong miếu thì có hai lần trùng tu là vào năm 1926 và 1947. Những năm gần đây, Nhân dân địa phương đóng góp công của để tu bổ, tôn tạo lại di tích nhưng vẫn giữ nguyên hiện trạng ban đầu của di tích. Ngày 08/8/2005, Miếu Ao được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 1592-QĐ/UB-VX của UBND tỉnh.
Di tích Miếu Ao phản ánh một cách chân thực đời sống văn hóa tinh thần của cư dân nông nghiệp. Vào các ngày rằm, mồng một hàng tháng, dịp đầu xuân năm mới, Nhân dân trong vùng và các làng lân cận thường đến Miếu Ao dâng hương để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình bình an. Đặc biệt, đến ngày 1 tháng 6 âm lịch, Nhân dân địa phương tổ chức lễ Kỳ phúc Lục ngoạt thu hút đông đảo du khách gần xa đến tham quan, vãn cảnh, sinh hoạt văn hóa tâm linh.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hippolyte Le Breton, An Tĩnh cổ lục, NXB Văn hóa Thông tin, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2014, tr 118.
[2]. Hồ sơ di tích lịch sử - văn hóa Miếu Ao, Bảo tàng tỉnh, 2005.
Nguyễn Nga