01-12-2025 - 09:50

Quỳ Quận công - Cương Quốc công Nguyễn Xí - Người đỡ mặt trời mà đặt lên cao

Nguyễn Xí (1397 - 1465) là một trong những khai quốc công thần có công rất lớn giúp Thái tổ Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn, cũng như sự nghiệp xây dựng, chấn hưng đất nước thời kỳ Hậu Lê. Năm 2025, tròn 560 năm Năm mất của Nguyễn Xí. Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Tùng Lĩnh về cuộc đời và sự nghiệp của vị danh thần lừng lẫy này.

Cương Quốc công Nguyễn Xí sinh năm Đinh Sửu 1397 tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc, nay là xã Đông Lộc, tỉnh Nghệ An, gốc là người làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, nay là xã Cổ Đạm, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 1405, Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Lúc này, Nguyễn Xí chưa đầy mười tuổi nhưng đã tỏ rõ là người có tài nên được Lê Lợi hết lòng yêu quý. Năm 1418, khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, vị tướng trẻ Nguyễn Xí lúc này mới 21 tuổi đã được tin cậy hầu cận bên cạnh Bình Định Vương Lê Lợi. Ông đã cùng Lê Lợi “nếm mật nằm gai”, trải những năm tháng gian nan, khổ ải của những năm đầu cuộc khởi nghĩa tại vùng rừng núi phía Tây Thanh Hóa.

Những năm 1421 - 1422, Nguyễn Xí là một trong những tướng có công lớn đập tan các cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an toàn Bộ Chỉ huy Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi.

Tháng 8 năm 1426, sau khi phái hơn 5 ngàn quân, chia làm hai đạo khác nhau cùng tiến vào vùng quân Minh chiếm đóng để hoạt động, Nguyễn Xí đã được Bình Định Vương Lê Lợi phong làm đại tướng, cùng với Đinh Lễ đem quân tinh nhuệ đi sau tiếp ứng. Đến ngày 7 tháng 10 năm đó, Nguyễn Xí và Đinh Lễ đã hợp sức với các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả và Đỗ Bí đánh trận quyết chiến chiến lược ở Tốt Động - Chúc Động, đại thắng quân Minh.

Năm 1427, Nguyễn Xí lại tiếp tục lập công lớn khi cùng với các tướng trong Bộ chỉ huy nghĩa quân của Lê Lợi đánh tan quân Minh ở Xương Giang, tạo bước ngoặt lớn đem đến thắng lợi hoàn toàn cho khởi nghĩa Lam Sơn.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, Nguyễn Xí được phong tước Liệt hầu, trở thành một trong những đại thần trong triều.

Năm 1437 đời Lê Thái Tông, ông giữ chức Chính sự kiêm Tri Từ tụng. Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân Tông. Năm 1445, vua Nhân Tông còn nhỏ, Nguyễn Thái hậu nhiếp chính, ông làm Nhập nội đô đốc, nhận lệnh cùng Lê Thận mang quân đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi thì bị quyền thần vu cáo hãm hại nên bị bãi chức. Năm 1448, ông  được phục hồi chức Thiếu bảo.

Tháng 10 năm Kỷ Mão 1459, anh vua Nhân Tông là Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân giết vua lên ngôi, đặt niên hiệu Thiên Hưng. Các đại thần Đỗ Bí, Lê Thụ, Lê Ngang mưu lật đổ vua Thiên Hưng nhưng bị bại lộ nên đều bị giết chết. Nguyễn Xí bàn mưu với Lê Lăng (con Lê Triện), Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) lật đổ Nghi Dân lần nữa.

Tháng 6 năm Canh Thìn 1460, Nguyễn Xí phát động binh biến, xướng nghĩa giết bầy tôi thân cận của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở nghị sự đường, nắm lấy cấm binh, đóng chặt cửa thành, sai Lê Ninh Thuận bắt vây cánh và phế vua Thiên Hưng làm Lệ Đức hầu, rước con út của Thái Tông là Tư Thành lên ngôi, lấy niên hiệu Quang Thuận, tức là vua Lê Thánh Tông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Đến tháng 10 năm đó, ông được phong Quỳ Quận công1. Năm 1462, được phong chức Nhập nội hữu tướng quốc, năm 1463 được thăng chức Thái úy.

Tháng 11 năm Giáp Thân 1464, Nguyễn Xí lâm bệnh nặng, vua Lê Thánh Tông ban dụ rằng: “Ngày xưa trẫm làm phiên vương, nhởn nhơ chốn cửu son, không có ý lên ngôi báu. Vì bọn khanh đồng lòng suy tôn, diệt bọn phản nghịch, đưa trẫm lên ngôi báu, đến nay đã 5 năm. Thú vui con hát, vũ nữ thì khanh không bằng họ Thạch họ Cao nhà Tống, mà lo lắng đến héo ruột khô tim thì khanh hơn hẳn họ Phòng, họ Đỗ đời Đường. Công lao đó trẫm chưa báo đền, bệnh khanh sao đã trầm trọng thế? Nếu khanh nghĩ đến nước, thì cơm cháo phải cố mà ăn, nếu khanh lo cho trẫm thì thuốc thang phải cố mà uống...”2.

Đến tháng 10 năm Ất Dậu 1465, Nguyễn Xí qua đời, thọ 69 tuổi. Nghe tin ông mất, nhà vua vô cùng tiếc thương, nghỉ chầu 3 ngày, ban tặng nhiều phẩm vật, nghi trang tế lễ, tặng hàm Thái sư, thụy là Nghĩa Vũ. (Cũng do ông được tặng hàm Thái sư nên có sách chép ông là Thái (hoặc Sái) Quận công). Sau đó gia tặng thêm là Cương Quốc công, ban sắc phong thần là “Hồng ân đại vương, Thượng đẳng phúc thần, Hiển uy Chính nghị oanh liệt trung trinh Đại vương”. Ngày 13 tháng 12 (cùng năm), an táng thi hài ông ở quê nhà huyện Chân Phúc, bên cạnh phần mộ của thân phụ ông.

Đánh giá về Nguyễn Xí, chính vua Lê Thánh Tông trước đó cũng đã có bài chế rằng: “… Xét Nguyễn Xí đây: khí độ trầm hùng, tính người cường đại. Giúp Cao Hoàng khi mở nước, trăm trận gian nan; phò tiên khảo lúc thủ thành, hết lòng giúp rập. Ra vào hết chức phận tướng văn tướng võ; trước sau giữ trọn tiết làm tôi con. Giữ mình có đạo, hồn nhiên như ngọc chẳng khoe tươi; nghiêm mặt ở triều, lẫm liệt như thanh gươm mới tuốt. Các quan đều tưởng mộ phong thái; bốn biển ngưỡng mộ uy danh. Tiên đế mất trong lúc Nam tuần, ngươi ân cần nhận tờ di chiếu. Ta lên ngôi mặt trời mới mọc, ngươi hết lòng bày tỏ mưu mô. Tôn miếu xã tắc được vững vàng… Lúc nước có biến phi thường, chỉ ngươi mưu lo cứu vãn. Cha con ngươi một nhà, cùng một lòng diệt phường gian ác; nghĩa vua tôi nghìn thuở, đỡ mặt trời mà đặt lên cao. Công kém gì đình thần nhà Hán…”3.

Sau khi ông mất, đền thờ ông được lập ở nhiều nơi, trong đó nhiều nhất là tại quê nhà làng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc (cũ), nay là xã Đông Lộc, tỉnh Nghệ An và quê gốc làng Động Gián, xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân, nay là xã Cổ Đạm, tỉnh Hà Tĩnh.

Đền thờ Nguyễn Xí, xã Cổ Đạm, Hà Tĩnh. Ảnh: Đậu Hà

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có hàng chục di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh thờ Nguyễn Xí… Đền thờ Nguyễn Xí, xã Cổ Đạm, tỉnh Hà Tĩnh được xếp hạng di tích quốc gia năm 2006. Tên Nguyễn Xí cũng đã được đặt cho nhiều công trình đường phố, trường học trên khắp cả nước như ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh (Cũ), Hà Tĩnh (cũ), Cửa Lò…   

Quỳ Quận công - Cương Quốc công Nguyễn Xí đã mất cách đây đúng 560 năm nhưng hình ảnh “đỡ mặt trời mà đặt lên cao” - từ dùng của vua Lê Thánh Tông để nói về ông là một sự ghi nhận xứng đáng với một trường hợp hiếm có, một vị công thần “sáng ngời như ngọc” trong lịch sử quân chủ Việt Nam.

N.T.L

___________

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in Nội các quan bản, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, 2012, tr.391.

2. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in Nội các quan bản, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, 2012, tr.401-402.

3. Lê Quý Đôn toàn tập (1978), Đại Việt thông sử, Tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.181.

 

. . . . .
Loading the player...