03-06-2024 - 01:17

Thành ngữ trong Truyện Kiều

Tạp chí Hồng Lĩnh số 213 tháng 5/2024 trân trọng giới thiệu bài viết “Thành ngữ trong Truyện Kiều” của tác giả Phạm Quang Ái.

1. Thành ngữ là một cụm từ cố định đã quen dùng và nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Do đặc tính ngắn gọn, hàm xúc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao nên thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác văn chương để nâng cao khả năng biểu đạt.

Thành ngữ có thể được phân loại dựa theo nhiều tiêu chí, tùy thuộc mục đích nghiên cứu tìm hiểu, tra nghĩa, giải nghĩa.

Theo nguồn gốc, có thể chia thành hai loại là thành ngữ thuần Việt và thành ngữ gốc Hán (thành ngữ Hán Việt). Ví dụ thành ngữ thuần Việt như Ăn xổi ở thì, buôn thúng bán mẹt..., thành ngữ Hán Việt như thâm căn cố đế, đồng bệnh tương liên...

Theo thủ pháp tu từ được sử dụng, có thể chia thành hai loại: thành ngữ so sánh và thành ngữ ẩn dụ. Thành ngữ so sánh ví dụ như nhát như thỏ đế, cấm cảu như chó cắn ma,... ; thành ngữ ẩn dụ như ruột để ngoài ra, rán sành ra mỡ,... 

Theo số lượng âm tiết có thể phân loại thành loại 3 âm tiết như khỏe như vâm, thẳng ruột ngựa, loại 4 âm tiết như một nắng hai sương, đá thúng đụng nia, loại 5 âm tiết như vắt cổ chày ra nướcdùi đục chấm mắm cáy…

Theo cấu trúc, có thể phân ra làm hai loại: thành ngữ đối xứng và thành ngữ phi đối xứng. Thành ngữ đối xứng thường có cấu tạo gồm bốn ấm tiết chia làm hai vế đối nhau về ý và từ loại, thanh điệu và có thể các vế có bắt vần với nhau, có nhịp điệu. Ví dụ: tai vách mạch rừng, tai bay vạ gió, hết nước hết cái, sông cạn đá mòn,…Thành ngữ phi đối xứng có cấu tạo gồm những âm tiết kết hợp với nhau không có sự đối xứng như: đỏ như gấc, đen như cột nhà cháy, chạy bán xới, bỏ của chạy lấy người,…

Tuy thành ngữ là những cụm từ cố định, có cấu tạo tương đối vững bền nhưng một số thành ngữ vẫn có thể có những biến đổi nhất định. Sự biến đổi đó có thể là đảo trật tự các vế trong thành ngữ đối xứng hoặc thay đổi một số âm tiết. Về sự đảo trật tự, ta thấy ở các thành ngữ như: cao chạy xa bay -> cao bay xa chạy, lên rừng xuống bể -> xuống bể lên rừng, gừng cay muối mặn -> muối mặn gừng cay -> mặn muối cay gừng,…; về sự thay đổi âm tiết, có thể có: đầu làng cuối xóm -> đầu thôn cuối xóm, đầu trâu trán khỉ -> đầu trâu trán vượn, đầu gà má lợn -> đầu gà má chó,… Sự biến đổi nói trên là do quá trình sử dụng thành ngữ trong nói và viết đã tạo ra các biến dị được cộng đồng bản ngữ chấp nhận.

2. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, thi hào đã sử dụng thành ngữ với một tỷ lệ rất cao và với những cách thức sử dụng rất sáng tạo, linh hoạt, tinh tế. Trước hết, về chủng loại, thành ngữ trong Truyện Kiều rất phong phú, có đủ các loại như chúng tôi đã phân loại ở mục 1, nhưng cũng như trong truyền thống ngữ văn của dân tộc, trong các tác phẩm của thi hào chủ yếu vẫn là thành ngữ đối xứng. Trong số 3254 câu thơ Truyện Kiều, theo sự thống kê của chúng tôi, riêng loại thành ngữ đối xứng có sẵn trong ngôn ngữ dân tộc và những biểu thức do chính Nguyễn Du tạo ra có tính thành ngữ, thì những câu thơ có chứa đựng thành ngữ chiếm tỷ lệ khoảng hơn 10%.

Việc sử dụng thành ngữ đối xứng góp phần quan trọng tạo nên sự đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Du: cấu trúc tiểu đối.

Yếu tố tiểu đối vốn được hình thành từ đặc điểm tiếng Việt là thứ ngôn ngữ đơn lập phân tiết tính và có thanh điệu. Tiếng Việt có 6 thanh, phân lập thành hai nhóm bằng – trắc: bằng gồm các âm tiết mang thanh ngang và thanh huyền; trắc gồm các âm tiết mang các thanh còn lại là sắc, hỏi, ngã, nặng. Trong mỗi nhóm lại phân lập tiếp thành hai nhóm nhỏ: bằng thì có phù bằng (thanh ngang) và trầm bằng (thanh huyền); trắc thì có trắc khứ (thanh sắc, thanh ngã) và trắc nhập (thanh hỏi, thanh nặng). Trong chuổi ngữ lưu, ngữ điệu lời nói (trầm bổng, lên xuống) được tạo ra bằng sự luân phiên các nhóm thanh điệu lớn nhỏ nói trên. Trong cấu tạo từ, các âm tiết được ghép với nhau theo các kiểu: đẳng lập, chính phụ và láy. Riêng loại từ ghép đẳng lập gồm hai âm tiết và phần lớn có sự luân phiên hoặc theo nhóm lớn là bằng – trắc hoặc theo nhóm nhỏ là phù - bằng, khứ - nhập. Ví dụ: gà vịt, chăn chiếu, chăn màn, chăn gối, giường chiếu, nhà cửa, nương vườn, ngày đêm, năm tháng, lọc lõi, chó lợn,… Nghĩa của từ ghép đẳng lập mang tính tổng hợp, khái quát, nói cách khác, đó là tính thành ngữ. Ví dụ: nói gà vịt thì không phải là trỏ gà và vịt mà là chỉ chung chim nuôi, nói mèo chó là chỉ chung các loại thú nuôi, nói năm tháng là chỉ chung về thời gian,… Từ ghép đẳng lập tuy mang nghĩa tổng hòa của hai yếu tạo nên nó có đặc điểm là kết cấu lỏng chứ không chặt như từ ghép chính phụ. Chúng ta có thể thay đổi trật tự giữa các yếu tố đẳng kết. Ví dụ: gà vịt -> vịt gà, chăn chiếu -> chiếu chăn,... Nhưng ở từ ghép chính phụ, tình hình không như thế, ta chỉ có thể nói đỏ au chứ không thể nói au đỏ, xanh ngắt chứ không thể là ngắt xanh, cà chua chứ không thể là chua cà,… Từ hạt nhân từ ghép đẳng lập, trong quá trình hành ngôn, cộng đồng bản ngữ tạo ra các biểu thức lớn hơn: gà vịt -> ông nói gà bà nói vịt, chăn chiếu -> trên chiếu dưới chăn, trâu ngựa -> trâu cày ngựa kéo,… Việc thêm các yếu tố có thể còn nhiều hơn nhưng bao giờ cũng phải đảm bảo tính đăng đối về thanh điệu, từ loại, ý nghĩa. Từ đó, đã tạo nên hình thức đối trong văn chương. Trong thơ lục bát, nếu câu thơ chỉ cấu tạo theo lối bình thường, các âm tiết nối nhau đều đặn theo tính luân phiên bằng trắc của luật thơ căn bản thì đối với những văn bản thơ dài sẽ rất nhàm chán về nhịp điệu, câu thơ sẽ loảng ra về nhạc điệu và ý nghĩa như một bản nhạc không có nhịp chỏi, không đảo phách, không điểm nhấn. Để khắc phục những nhược điểm này, thi hào Nguyễn Du đã phát huy đặc tính thành ngữ trong tiếng Việt để tạo ra các hình thức tiểu đối cho câu thơ của mình.

Thơ lục bát sở dĩ có thể có cấu tạo tiểu đối được là vì mỗi câu thơ đều chẵn chữ. Tiểu đối trong thơ lục bát là hình thức tách đôi mỗi câu lục hoặc bát thành hai vế đối xứng, đối nhau về ý, về từ loại, về thanh điệu. Ví dụ:

Làn thu thủy/nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm/Liễu hờn kém xanh.

Đó là hình thức đối chuẩn chỉnh. Tuy nhiên, do áp lực tìm vần và sự thay đổi các kiểu cấu trúc câu thơ để làm phong phú âm điệu, nhịp điệu nên hình thức này không thể xuất hiện liên tục. Thay vào đó, có khi là câu lục có tiểu đối thì câu bát không hoặc ngược lại. Ngoài ra, cảm giác đối còn được tạo nên bởi rất nhiều các thành ngữ 4 chữ được chêm vào trong các câu thơ ở các vị trí khác nhau: có khi đầu câu, có khi cuối câu hoặc giữa câu.    

Hình thức tiểu đối vốn xuất hiện trong ca dao người Việt nhưng không nhiều và chưa hoàn toàn tự giác mà chủ yếu là do đặc điểm cấu tạo nói trên của tiếng Việt chi phối nên thuận miệng mà ngâm nga. Ví dụ: Người ta đi cấy lấy công,/ Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề./ Trông trời, trông đất, trông mây,/ Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm./ Trông cho chân cứng đá mềm,/ Trời yên biển lặng, mới yên tấm lòng.

Các thành ngữ “chân cứng đá mềm”, “trời yên biển lặng” xuất hiện đã tạo nên yếu tố tiểu đối cục bộ (tiểu đối lệch) trong hai câu lục bát cuối. Cũng có những bài ca dao có yếu tố tiểu đối chuẩn chỉnh như bài sau đây: Lao xao gà gáy rạng ngày,/ Vai vác cái cày, tay dắt con trâu./ Bước chân xuống cánh đồng sâu,/ Mắt nhắm mắt mở, giục trâu đi cày./ Ai ơi bưng bát cơm đầy,/ Dẻo thơm một hạt/đắng cay muôn phần.

Chỉ có những bài ca dao được dân gian hóa từ những bài thơ lục bát của các nhà nho thì hình thức tiểu đối mới được dùng một cách có chủ ý. Tiêu biểu cho loại này là bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà” vốn là một dị bản dân gian của bài thơ “Tức cảnh Hà Nội” của Tiến sĩ Dương Khuê.

Ngay từ những câu thơ mở đầu Truyện Kiều, chúng ta đã bắt gặp nhiều thành ngữ tham gia tạo nên hình thức tiểu đối:

- Lạ gì “bỉ sắc tư phong”,

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

- “Hoa cười ngọc thốt” đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

- Một hai “nghiêng nước nghiêng thành”

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

- Êm đềm “trướng rủ màn che”

Tường đông ong bướm đi về mặc ai

- Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

Thì đà “trâm gãy bình rơi” bao giờ

- Sắm sanh “nếp tử xe châu”,

Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa.

- Trải bao “thỏ lặn ác tà”

Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm

- Nào người “phượng chạ loan chung”

Nào người “tiếc lục tham hồng” là ai

- Đã không “kẻ đoái người hoài”

Sẵn đây ta thắp một vài nén hương

Trong 92 câu thơ này, chúng ta đã có 10 thành ngữ được chêm xen một cách rất hợp lý trong từng câu Kiều. Cách kết hợp đa dạng, các thành ngữ nằm ở nhiều vị trí khác nhau trong các câu thơ. Đầu câu lục: Hoa cười ngọc thốt đoan trang;cuối câu lục: Lạ gì bỉ sắc tư phong, Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Êm đềm trướng rủ màn che, Sắm sanh nếp tử xe châu, Trải bao thỏ lặn ác tà, Nào người phượng chạ loan chung, Đã không kẻ đoái người hoài; giữa câu bát: Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ, Nào người tiếc lục tham hồng là ai.Và phụ họa vào đó là các vế tiểu đối chỉnh: Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da, Làn thuy thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh, Sắc đành đòi một tài đành họa hai đã làm nên một bức tranh ngôn ngữ sống động về âm điệu, ngữ nghĩa trong đoạn mở đầu Truyện Kiều.

Cấu trúc của thành ngữ chặt chẽ, súc tích, có tính cố định hóa cao trong ngôn ngữ nên khi sử dụng chúng người ta thường đưa vào lời văn, lời thơ nguyên dạng. Vấn đề thách thức tác giả là phải căn cơ làm sao để khi gắn chúng vào lời văn của mình phải liền một khối. Trong Truyện Kiều, không ít trường hợp, Nguyễn Du giữ nguyên thành ngữ mà câu thơ vẫn uyển chuyển, hồi hoàn, luyến láy:

- Ra tuồng “mèo mả gà đồng”

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào

- Ở đây “tai vách mạch rừng”

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi

Ngoài cách đưa nguyên biểu thức thành ngữ và lời thơ, nhiều trường hợp Nguyễn Du đã sáng tạo bằng cách tách thành ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố khác để nhấn mạnh hoặc giải thích ý nghĩa của chúng hoặc để cho phù hợp với vần điệu của câu thơ. Những thành ngữ như “trong ấm ngoài êm”, “tình sông nghĩa bể”, “khổ tận cam lai”, “đau như dần”, “ai khảo mà xưng”, “rút dây động rừng” được chia tách một cách khéo léo để đan xen vào các câu thơ sau:

- Nàng rằng: non nước xa khơi,

Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.

- Một nhà sum họp trúc mai,

Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông

- Tẻ vui bởi tại lòng này

Hay là khổ tận đến ngày cam lai

- Nghĩ đà bưng kín miệng bình

Nào ai có khảo mà mình lại xưng

- Những là e ấp dùng dằng

Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi

Trong Truyện Kiều, ngoài thành ngữ thuần Việt lấy từ dân gian, thi hào cũng sử dụng khá nhiều thành ngữ Hán Việt. Tuy nhiên, phần lớn các thành ngữ Hán Việt mà ông sử dụng đều là những thành ngữ tương đối phổ biến, ít nhiều đã được phổ cập trong số đông dân chúng. Mặc dầu vậy, song Nguyễn Du thường căn cứ vào đặc điểm cấu tạo về hình thức và ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt để chuyển dịch nhằm Việt hóa hoàn toàn loại thành ngữ này. Ví dụ các thành ngữ Hán Việt:  thiên nhai hải giác ->  chân trời góc bể, hồng diệp xích thằng -> lá thắm chỉ hồng… Cũng có không ít trường hợp Nguyễn Du giữ nguyên thành ngữ Hán Việt nhằm tạo màu sắc trang trọng, cổ kính, uy nghiêm như “thanh thiên bạch nhật” trong câu “ Ba quân đông mặt pháp trường/ Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi”, “ bình địa ba đào” trong câu “ Gặp cơn bình địa ba đào/ Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em”, “quả kiếp nhân duyên” trong câu “Âu đành quả kiếp nhân duyên/Cũng người một hội một thuyền đâu xa”, “tú khẩu cẩm tâm” trong câu “Xem thơ nức nở khen thầm/Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường”, “trọng nghĩa khinh tài” trong câu “Chiếc thoa nào của mấy mươi/Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao”,…

Điều đáng nói là trong Truyện Kiều, bằng cảm thức ngôn ngữ mẫn tiệp của mình về tính thành ngữ của tiếng Việt, Nguyễn Du đã tạo ra không ít những biểu thức ngôn ngữ có tính thành ngữ cao và nó đã thoát thai từ tác phẩm của ông để gia nhập vào kho tàng thành ngữ dân gian. Ví dụ như “lá gió cành chim” trong câu “Dập dìu lá gió cành chim”, “nửa ở nửa về” trong câu “Dùng dằng nửa ở nửa về”, “vén tóc bắt tay” trong câu “Mối càng vén tóc bắt tay”, “cân sắc cân tài” trong câu “Đắn đo cân sắc cân tài”, “một vẻ một ưa” trong câu “Mặn nồng một vẻ một ưa”, “máu sa ruột sầu” trong câu “Nhìn nàng ông những máu sa ruột sầu”,…Có thể nói, rất nhiều biểu thức ngôn ngữ có tính thành ngữ như thế đã được tạo nên bằng/từ ngữ cảnh Truyện Kiều để từ vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Du, chúng đi vào lời ăn tiếng nói của nhân dân và thơ văn của các văn nhân đời sau.

3. Nguyễn Du là một bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ. Đương thời, sách Đại Nam chính biên liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi nhận về ông: “Du trường ư thi, thiện quốc âm” (Nguyễn Du sở trường về thơ, giỏi quốc âm), Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong lời giới thiệu sách Vương Thúy Kiều tân truyện chú giải có dẫn lời nhân vật Phan Thạch Sơ đánh giá ngôn ngữ Truyện Kiều là “Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ” (Lời văn tuyệt diệu nghìn xưa của Đại Việt). Quả đúng như vậy.Truyện Kiều là tập đại thành, là tinh hoa ngôn ngữ văn chương hàng ngàn năm của người Việt được bàn tay thiên tài Nguyễn Du hun đúc, tinh luyện nên trên tinh thần “Thôn ca sơ học tang ma ngữ/Dã khốc thời văn chiến phạt thanh” (Nghe lời ca nơi thôn xóm để học ngôn ngữ kẻ trồng dâu/Nghe tiếng khóc nơi đồng nội để lắng âm thanh của chiến tranh, sát phạt - Thanh minh ngẫu hứng). Vì thế, chúng ta không lạ khi trong Truyện Kiều chứa cả một kho tàng thành ngữ đa dạng, phong phú được rút ra từ thi liệu văn chương bác học đã được Việt hóa và từ lời ăn tiếng nói của kẻ trồng dâu, chăn tằm, cày ruộng. Đó là những khối đơn vị ngôn ngữ đã được chắt lọc từ trong sâu thẳm của tâm hồn cha ông được Nguyễn Du dệt vào ngôn ngữ văn chương Truyện Kiều.

Để có thể khám phá vẻ đẹp kiệt tác Truyện Kiều, thì thành ngữ và việc dùng thành ngữ của Nguyễn Du là một góc tiếp cận rất quan trọng. Qua góc tiếp cận này, chúng ta không chỉ hiểu được tâm hồn, tài năng của thi hào mà còn tiếp nhận được rất nhiều tri thức cuộc sống vô cùng giá trị.

Phạm Quang Ái

. . . . .
Loading the player...