Đời cát của tác giả Nguyễn Thị Cẩm, Giáo viên trường THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh là bức tranh chân thực về làng chài miền biển miền Trung, nơi con người gắn bó, đấu chọi và cũng nương tựa vào biển. Qua những lớp sóng dữ dội và cát trắng bền bỉ, truyện tôn vinh sức chịu đựng, tình mẫu tử, sự kiên cường và đức hi sinh thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời phản chiếu vẻ đẹp mặn mòi, bền gan của người dân làng biển trước bao biến thiên của cuộc đời và biển cả.
Đời cát
Nguyễn Thị Cẩm
Bà Sáu nhìn day day ra phía biển. Ánh nhìn trân trối xoáy về khoảng sáng tối hư vô. Màn đêm buông chầm chậm, đổ đầy màu tối vào từng ngóc ngách, lan dần từ con đường chạy từ biển vào đến trong hiên nhà. Bà Sáu ngồi lặng yên không nhúc nhích. Kẽ mắt rỉ xuống một dòng nước mắt mờ đục, đọng lại nơi vết chân chim rồi dần khô lại…
Đêm nay biển động. Từ cuối giờ chiều, gió đổi chiều thổi từ biển vào. Mây đen ùn ùn kéo kín mặt biển phía xa. Mấy con thuyền đêm nay không ra khơi. Người ta lôi thuyền vào sâu trong bãi cát, úp nghiêng xuống. Lưới vó, ngư cụ được cuộn tròn lại, chằng buộc cẩn thận. Sóng đánh từng đợt mạnh, ì oạp kéo xô nhau lên bãi cát, tung bọt trắng xóa. Mùa biển động, sóng hung hăng tiến vào sát làng hơn, chừng định chiếm hết cái làng biển này.
Bao lần rồi, biển tiến, biển lùi nhưng cái làng vẫn nằm đó bền gan, kiên định. Bao người dân biển đã sinh ra và lớn lên bên triền sóng. Quần thảo cùng sóng biển, sống với biển, đổ mồ hôi, nước mắt, đánh đổi sinh mạng với biển để dành dật miếng cơm. Biển nuôi sống người dân nơi đây, nhưng biển cũng lấy đi bao trai tráng, để lại mẹ già, vợ goá khăn trắng trên đầu. Nhưng không ai khóc mãi đến sáng đêm, khóc nhiều rồi thì cũng phải nín, cũng phải quay lại với cơm áo, đàn ông vẫn phải ra khơi, đàn bà vẫn lại chạy cá. Trẻ con lớn lên theo nhịp sóng biển, hết tuổi nghịch cát bên nhà thì theo anh chị đi nhặt cá, bắt ốc bắt cáy. Lớn lên chút xíu thì con trai theo cha ra khơi, con gái theo mẹ chạy cá…
Đời họ như con còng gió ăn đêm. Trong cái tịch mịch của đêm, giữa tiếng sóng thịnh nộ, mải miết kiếm tìm. Vo viên bao nhiêu triệu hạt cát mới đầy cái thân còng gầy xơ xác. Rồi sóng lại cuốn tất cả về với biển khơi.
Đêm nay, bà Sáu thức đợi một người…
Bà Sáu là chị cả trong gia đình có 5 chị em. Trời phú cho bà vóc dáng to đậm, vai ngang rộng. Người ta bảo, tướng phụ nữ mà to cao như đàn ông thế là khổ vì sinh ra là để gánh vác. Chả biết người xưa nói đúng không nhưng mới mười sáu tuổi, với sức vóc ấy, bà làm được cả những công việc vốn chỉ dành cho đàn ông.
Bà theo chân cha ra bãi cát, nơi bạn chài đã xách làn cơm đợi sẵn. Bà đẩy phà phà con thuyền trên bãi cát nhẹ như không. Từng dấu chân chắc nịch in rõ đều đặn trên cát ẩm. Bà cũng thuần thục những công việc như kéo lưới, muối mắm, chạy chợ.
Gánh gồng cùng cha mẹ nuôi 4 đứa em lít nhít, đến lúc đứa nhỏ nhất biết trông nhà thì bà lấy chồng. Chồng bà là người kẻ biển, mạnh khỏe, cao to khỏe mạnh. Nước da quanh năm nhuộm nắng và mặn mòi của muối biển thành màu bánh mật rắn rỏi. Ăn ở với nhau được hai mặt con thì chồng bà lên đường đi bộ đội. Rồi chiến tranh biền biệt, không thư từ , không tin tức. Ngày bà nhận tin chồng lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng. Giấy báo tử đưa về tận nhà.
Bà nhớ như in. Trưa hôm ấy, bà vừa gánh hai gánh khoai vừa được chia bên hợp tác xã về nhà. Vừa bước qua cổng, bà đã thấy ông xã đội trưởng trầm ngâm ngồi trước hiên nhà, xung quanh hàng xóm anh em kéo đến đông nghịt, ai cũng nhìn bà ái ngại. Đời bà, trừ cái hôm ông Nhẫn – bố bà đi hỏi cưới dì Nhỏ, chưa lần nào bà bắt gặp lại ánh nhìn ấy. Thời buổi chiến tranh, những cảnh này đâu còn xa lạ. Gánh khoai trên vai rớt xuống, lăn lông lốc trên mặt đất. Bà nhận tờ giấy báo tử từ tay ông xã đội trưởng, khóc không thành tiếng.
Người đàn ông xứ biển lực lưỡng ấy ra đi, để rồi trở về vẻn vẹn một tờ giấy báo tử lạnh lẽo. Ngày xã làm lễ truy điệu, mưa như trút nước. Bà ngồi thẫn thờ nhìn ra biển, mặc cho mưa từng đợt quất vào mặt, thấm vào thịt da lạnh lẽo, nước mắt hoà với nước mưa mặn chát. Gió biển thổi tung mái tóc rối, đã xơ cứng lại vì nắng mưa.
25 tuổi, bà mất chồng, gồng gánh trên vai cha mẹ già và 2 đứa con thơ dại, đứa lớn 5 tuổi, đứa nhỏ 3 tuổi. Cũng có người đánh tiếng, lời ra lời vào nhưng nghĩ đến con bà bấm bụng tự hứa. Đêm nằm, bà ôm con út vào lòng, hít hà mái tóc tơ ám mùi nắng, thương con thắt ruột. Một đời bà nếm đủ đắng cay là đủ rồi. Đến bây giờ thỉnh thoảng nghĩ về tuổi thơ của mình, cảm giác ớn lạnh vẫn chạy dọc sống lưng…
- Cái con sao chổi kia! Mày chui vào cái xó xỉnh nào mà để em nghịch đất cát bẩn thỉu thế hả? Đúng là đồ sao chổi! Giọng Dì Nhỏ eo éo từ ngoài cổng.
Uh! Là sao chổi nên vừa lọt lòng thì mẹ mất. Hôm bà Thoan trở dạ sinh ra Sáu trời mưa không ngớt. Mưa quật từng hồi lên mái tranh, thốc vào tận từng ngóc ngách trong nhà như muốn hất tung tất cả. Gió kéo từng đợt xối rạt rạt lên tấm tăng mỏng manh treo trước cửa nhà.
Ông cha mình nói cấm có sai: “Đàn ông đi biển có đôi/ Đàn bà vượt cạn đơn côi một mình”. Cái đau, cái khổ khi sinh nở của người đàn bà không ai xẻ ra, kề vai mà gánh thay cho được cả.
Bà đỡ nói bà Thoan sinh khó, không có sức để rặn. Bà Thoan nằm mê man trên chiếc giường cui, mặt xanh như tàu lá, mồ hôi vã ra, chân tay thõng xuống. Mơ màng trong tiếng hối thúc của bà đỡ, bà Thoan cố lấy chút hơi tàn còn sót lại rặn một hịch dài. Mẹ ông Nhẫn vừa quạt xong nồi than, nấu nồi nước sôi bưng vào tận giường thì bà Thoan cũng vừa sinh. Đứa bé vừa dè dặt cất tiếng khóc chào đời, bà Thoan cũng trút hơi thở cuối cùng. Đứa bé mang mệnh khổ, nhỏ thó, đen đúa và nhăn nheo như con mèo đói.
Sáu thiếu hơi mẹ, đau ốm, quặt quẹo quanh năm. Trên đầu chi chít những vết sẹo do sài đẹn. Lần hồi khoai sắn cùng với tình yêu thương của bà nội, Sáu cũng lớn lên. Ông Nhẫn không chịu được cảnh vợ goá con côi, đi thêm bước nữa. Dì Nhỏ khô quắt như que củi, cái mặt lưỡi cày trông không hài hòa gì mấy với đôi mắt xếch nhỏ kéo dài về phía đuôi mắt. Hàm răng không ưa cái chật chội của khoang miệng nên thi nhau nhô ra phía ngoài, xìa cho kịp 2 bờ môi sần sùi và thô kệch. Dì Nhỏ đi bên ông Nhẫn thật chẳng khác nào một sự trêu ngươi của tạo hóa.

Đời Cát (Minh họa: Mi-a)
Ngày ông Nhẫn dẫn dì Nhỏ về nhà, Sáu đứng nép bên chái bếp nhìn trộm lên nhà trên, mắt rơm rớm. Những bữa cơm không có ông Nhẫn ở nhà, thêm nhiều hơn những cái liếc xéo của dì Nhỏ. Bà nội thương Sáu mồ côi mồ cút nhưng bà cũng như ngọn đèn trước gió, vụt tắt trong một sớm. Thêm một lần nữa Sáu côi cút giữa đời.
Từ ngày bà nội mất, không ai bảo bọc cho Sáu nữa. Hàng xóm quá quen với những âm thanh léo nhéo, tiếng chửi rủa vang lên thường như cơm bữa của dì Nhỏ. Những lúc như vậy, ông Nhẫn chỉ im lặng, nhìn con thở dài xót xa. Bốn đứa em lần lượt ra đời. Sáu nách em đến thâm cả hai bên hông. Tấm áo sờn bợt, hôi hoắng vì nước đái mấy đứa em. Cõng đứa lớn trên lưng, ẵm đứa nhỏ bên sườn, Sáu thành thục công việc nhà cửa, bếp núc. Lớn thêm chút nữa, Sáu biết muối mắm, phơi cá, gánh nước mắm lên tận miền ngược đổi lấy củi về xuôi bán. Dì Nhỏ vì vậy cũng ít ghét Sáu hơn.
Khi đứa em út vừa biết trông nhà thì Sáu lấy chồng, rồi theo chồng sang xã khác. Chồng đi bộ đội hi sinh, bà Sáu ở vậy nuôi hai đứa con khôn lớn. Thằng cu lớn ngày nhỏ tính tình bướng bỉnh, trái nết, không ưng cái gì là dằn dỗi. Nói nhiều lần không được, có lần bà Sáu bỏ nó vào cái chum sành, lấy bì bịt lại. Nó lạy sống bà, hai mẹ con ôm nhau cùng khóc. Sau đận ấy, nó khiếp đến già. Bà thà quyết liệt với con hơn là đau lòng khi nghe hàng xóm chửi “Con không ai dạy”. Bà treo bằng Tổ quốc ghi công trang trọng chính giữa nhà, răn con sống sao cho xứng với cha.
Thằng lớn học giỏi, được gửi đi đào tạo ở nước ngoài, rồi đi làm, lấy vợ sinh con và ở hẳn ngoài Hà Nội. Con gái út theo nghề sư phạm, dạy học và lấy chồng ở trên tỉnh. Cuối tuần, cả nhà gái út tranh thủ về thăm nhà thăm mẹ, cho mấy đứa nhỏ được nghỉ ngơi, chơi đùa với biển.
Hôm nay, tròn 40 năm ngày chồng bà hi sinh. Đất nước đã trọn niềm vui, còn ông đi mãi chưa về. Mấy mẹ con bà Sáu làm mâm cơm nhỏ ấm cúng, tưởng nhớ ông. Thân thể ông vẫn nằm đâu đó dưới lòng sông Thạch Hãn hoặc tan biến vào sông để tìm về với biển khơi. Vừa xong bữa cơm chiều thì gia đình thằng lớn cũng lên tỉnh cho kịp tàu ra Hà Nội. Bà nhìn theo bóng lưng con, thương thương đến lạ.
Đêm dần khuya. Đứa con gái út nghiêng đầu gối lên tay bà, hít hà mùi mồ hôi, mùi nắng rát và mặn mòi của biển thấm trong da thịt mẹ. Bình yên, nhẹ nhõm chìm dần vào giấc ngủ. Hai đứa con rồi mà gái út vẫn quấn quýt mẹ như ngày còn nhỏ.
Bà vuốt mái tóc của đứa con gái út. Từng sợi tóc quăn rủ xuống vầng trán nhỏ, hơi dồ ra. Cái trán bướng của cha, không sai đi đâu được. Ngày bé, nó giữ bà Sáu như giấu của riêng. Hễ ai buông lời trêu ghẹo là lập tức nhận được cái liếc xèo và cái xì môi hậm hực của nó. Nó luôn miệng bảo: Cha đi chiến đấu ở miền Nam, bao giờ hết giặc, cha về sẽ mua búp bê biết ngủ, biết thức cho nó. Ấy mà thấm thoắt hơn 40 năm, nó đợi nhưng cha không bao giờ về nữa.
Gió lặng dần, mưa cũng bắt đầu ngớt. Hơi gió lành lạnh len vào cánh màn, tan mềm vào đêm tĩnh mịch. Xa xa, tiếng sóng biển vẫn gối đầu nhau liếm vào bờ cát, vỗ ì oạp. Cát nín thinh, lặng lẽ ôm trọn cái cồn cào của sóng để bình yên bãi bờ mênh mông. Chập chờn trong giấc ngủ, một bóng lưng quen, lừng lững, vững chãi bỗng thấy hiện về….
N.T.C