Văn nghệ Hà Tĩnh giới thiệu bài viết Bác Hồ và quan điểm về nghề viết báo của tác giả Nguyễn Hằng, trường đại học Hà Tĩnh.
BÁC HỒ VÀ QUAN ĐIỂM VỀ NGHỀ VIẾT BÁO
Bác Hồ kính yêu đã ra đi 54 năm nhưng tấm gương vĩ đại của người về chủ nghĩa yêu nước, về trí tuệ uyên bác, đạo đức cách mạng trong sáng của người là sự cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ người Việt Nam. Và một trong những tài năng xuyên suốt của người trong hành trình làm cách mạng chính là năng lực làm báo đầy sức thuyết phục, mang lại đóng góp không nhỏ cho thành công của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trải qua gần 60 năm hoạt động, Bác đã viết hơn 2.000 bài báo các loại, gần 300 bài thơ, gần 500 tranh truyện, ký và ký họa. Người đã sáng lập ra 9 tờ báo: Người cùng khổ (Le Paria năm 1922), Quốc tế Nông dân (1924), Thanh Niên (1925), Công Nông (1925), Lính Kách mệnh (1925), Thân Ái (1928), Việt Nam Độc lập (1941), Cứu quốc (1942) và Tạp chí Đỏ (1930). Đồng thời, Người đã thành lập Đài phát thanh Quốc gia (nay là Đài Tiếng nói Việt Nam) ngày 7/9/1945; thành lập Hãng tin Quốc gia (nay là Thông tấn xã Việt Nam) ngày 15/9/1945; báo Sự Thật (nay là báo Nhân Dân) ngày 11/3/1951. Trong quá trình hoạt động Người đã sử dụng 150 bút danh và viết báo bằng nhiều thứ tiếng, tạo nên những tác phẩm báo chí xuất sắc đăng trên nhiều tờ báo trong và ngoài nước. Người đã dùng báo chí làm vũ khí đắc lực trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Và để trở thành một nhà báo xuất sắc, Bác đã cố gắng và kiên trì học làm báo từ những bước đi đầu tiên.
Bác bắt đầu nghề viết từ những tin ngắn...
Năm 1911, Bác Hồ khi ấy mang tên Nguyễn Tất Thành đã xin làm phụ bếp trên tàu để được đi ra thế giới mở rộng kiến thức. Năm 1919, Bác trở về Pháp sống với cụ Phan Châu Trinh và luật sư Phan Văn Trường. Chính trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành đã viết bản yêu sách gửi Hội nghị Versailles để yêu cầu tự do, bình đẳng cho dân An Nam với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù bản yêu sách không được hội nghị các nước đế quốc xem xét nhưng Nguyễn Ái Quốc không nản lòng. Bỏ hết số tiền dành dụm được để thuê in bản yêu sách thành truyền đơn, Nguyễn Ái Quốc đã đem một phần gửi về trong nước qua các thủy thủ, một phần đem phân phát tại Paris. Thật bất ngờ, bản yêu sách được tờ báo Dân chúng đăng lên. Cảm kích, Nguyễn Ái Quốc đến tòa soạn tờ báo để cảm ơn và đã được ông Jean Longuet – chủ nhiệm tờ báo và là cháu ngoại của Karl Marx và là Nghị sĩ Quốc hội Pháp đã tiếp đón rất thân mật. Ông gọi Nguyễn Ái Quốc là đồng chí và bày tỏ nhiều cảm tình với nhân dân An Nam, đồng thời ông cũng khuyến khích Nguyễn Ái Quốc viết tin tức ở thuộc địa cho báo của ông nhằm làm cho người Pháp hiểu rõ những bất công xảy ra ở An Nam. Được ông Jean Longuet động viên, Nguyễn Ái Quốc thường lui tới tòa soạn báo Dân Chúng để học hỏi và cũng tích cực làm quen với những người Pháp khác. Trong số đó, có ông chủ bút tờ Đời sống thợ thuyền. Ông này chính là người đầu tiên dạy Nguyễn Ái Quốc những kỹ năng làm báo. Ban đầu, ông bảo Nguyễn Ái Quốc viết tin tức ở thuộc địa cho báo nhưng lúc ấy Nguyễn Ái Quốc còn chưa giỏi mặt viết lách bằng tiếng Pháp. Biết vậy, ông chủ bút động viên: “Có thế nào anh viết thế ấy, tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa đi in. Anh không cần viết dài; 5 hay 6 dòng cũng được”. Nguyễn Ái Quốc bắt đầu học viết báo như thế.
Những mẩu tin đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc viết rất khó khăn. Khi viết xong lại cẩn thận chép thành 2 bản. Một bản gửi cho tòa soạn còn một bản thì giữ lại. Lần đầu tiên được đăng báo, Nguyễn Ái Quốc vô cùng vui sướng, đọc đi đọc lại rồi lấy bản gốc ra để so đọ xem người ta sửa như thế nào để rút kinh nghiệm và học hỏi cách viết. Cứ như thế một thời gian, Nguyễn Ái Quốc đã nắm được cách viết tin. Khi viết tin ngắn đã bớt sai, ông chủ bút lại bảo: “Bây giờ anh viết dài hơn một tí, viết độ 7, 8 dòng”. Cứ theo cách kéo dài dần dần ấy, Nguyễn Ái Quốc đã viết được cả một cột báo hoặc có khi dài hơn. Đúng lúc ấy, người chủ bút lại bảo: “Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng, không viết dài hơn”.
Phải rút ngắn lại trong khi đang quen viết dài cũng khổ như lúc ban đầu đang viết ngắn phải kéo dài ra. Nhưng với sự cố gắng nghiêm túc, Nguyễn Ái Quốc đã làm được theo yêu cầu của người thầy. Đến lúc đó, Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững kỹ năng viết báo, có thể viết ngắn dài tùy ý mình.
... Đến Người làm báo thông minh
Sau khi học được kỹ năng viết báo, cùng với việc gửi bài đăng lên các tờ báo Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập một tờ báo của riêng mình. Ông cùng các đồng chí lập ra tờ báo Người cùng khổ - Le Paria do ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, viết bài, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc. Ban đầu, báo Người cùng khổ gửi bán ở các sạp báo không chạy mấy, Nguyễn Ái Quốc bèn nghĩ ra cách mang báo đến các buổi mít tinh phát cho dân chúng, rồi lên diễn đàn nói: “Các bạn thân mến, báo Người cùng khổ phát không nhưng tôi hết sức cảm ơn nếu các bạn vui lòng quyên góp giúp ít nhiều để giúp chúng tôi trả tiền in. Một xu, một quan, nhiều ít cũng tốt”. Những người Pháp dù nghèo cũng sẵn lòng rộng rãi cho nên Nguyễn Ái Quốc đã thu được những khoản tiền đủ chi trả cho tổn phí ra báo, đôi khi còn dư nữa. Dưới ngòi bút sắc bén của mình, Người đã vạch trần tội ác của bọn xâm lược tại các thuộc địa; đồng thời Người dùng các tờ báo làm công cụ tuyên truyền con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
Đối với Bác, làm báo chính là làm cách mạng, báo chí cách mạng là một mặt trận chiến đấu của cách mạng, cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Bởi vậy. đã là nhà báo, chiến sĩ cách mạng, bất cứ người cầm bút nào trên mặt trận báo chí cách mạng phải hiểu rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là gì.
Bác cho rằng: “Tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Nhưng với giấy trắng mực đen ấy, người ta có thể viết nên những bức tối hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu đương” (trả lời phỏng vấn báo chí năm 1946). Bác luôn căn dặn các nhà báo: “Trước khi đặt bút xuống trang giấy, người viết cần tự mình thật sáng tỏ, ta “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?”. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của báo chí đòi hỏi người làm báo phải có đủ phẩm chất của người cán bộ cách mạng, không quản ngại gian khó, hy sinh, kể cả tính mạng, vì nhân dân phục vụ. Người làm báo phải dùng cây bút, trang giấy làm vũ khí sắc bén chiến đấu cho mục đích vẻ vang của cách mạng, chứ không phải làm báo để lưu danh thiên cổ, muốn viết cho ai, muốn đăng bài mình lên các báo lớn. Bác khuyên dạy các nhà báo, để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu thực tế, đi sâu quần chúng lao động. Theo Người, báo chí cách mạng, ngoài tính chiến đấu, tính khoa học, tính giai cấp, tính chân thực, khách quan, còn phải thể hiện một cách đơn giản, dễ hiểu, đại chúng, sinh động để báo chí làm tròn nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức và giáo dục tập thể.
Sự nghiệp làm báo đồ sộ của bác, những quan điểm làm báo sâu sắc, chân thực và nhân ái của Bác là tấm gương lớn và là hệ thống những bài học sâu sắc để các thế hệ người làm báo chuyên và không chuyên sau này học tập và làm theo. Và đối với một người viết không chuyên như tôi, tấm gương vĩ đại của Bác và sự nghiệp làm báo của Bác chính là ngọn đuốc sáng soi đường, dẫn lối để mỗi tác phẩm ra đời sẽ là một bông hoa tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp.
Nguyễn Hằng