Tạp chí Hồng Lĩnh số 215 tháng 7 trân trọng giới thiệu bài viết “Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện từ thềm Hội nghị Genève 1954 đến Giải thưởng lớn Viện Hàn lâm Pháp” của tác giả Trung Sơn.
Hội nghị Genève nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương được khai mạc ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954. Nói cách khác, không có chiến thắng Điện Biên Phủ, không có Hội nghị Genève.
Để có “Chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu”, trước hết phải nhớ đến sự hi sinh của hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ và dân công hỏa tuyến - có tên và “vô danh” (tôi đã có dịp lên Nghĩa trang Đối A1 Điện Biên, hầu hết các ngôi mộ đều không có tên). Sự lãnh đạo kiên quyết của Đảng, Chính phủ và đặc biệt - tài thao lược của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định. Trong bài thơ “Hoan hô chiến thắng Điện Biên”, nhà thơ Tố Hữu viết: “Chín năm một Điên Biên”… nghĩa là cả dân tộc chung sức suốt cuộc trường chinh gần một thập kỷ mới làm nên “chiến thắng chấn động địa cầu”.
Hội nghị Genève (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương (Ảnh tư liệu)
Do những điều kiện lịch sử cụ thể, nhiều thập kỷ qua, dân tộc ta luôn có một số lượng không nhỏ - với các nguyên nhân khác nhau - đã “vượt biên” đến sống trên nhiều quốc gia trên thế giới, được gọi chung là “Việt kiều”; trong đó, Việt kiều tại Pháp đã đóng vai trò đáng kể góp phần vào thắng lợi của đất nước qua hai cuộc kháng chiến. Trên con đường đất nước hội nhập sâu rộng với quốc tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và 70 năm ký kết Hiệp định Genève, nhắc lại những hoạt động của Việt kiều Pháp với Tổ quốc trong cuộc trường chinh lần thứ nhất của dân tộc, hẳn cũng là điều hợp lẽ…
*
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, Việt kiều ở Pháp sớm có tổ chức phong trào yêu nước và những hoạt động của phong trào có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, nhất là trên mặt trận quốc tế - ngoại giao.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Việt kiều ở Pháp còn ít. Khi chiến tranh nổ ra, mấy vạn lính thợ người Việt bị bắt đưa sang Pháp, sống tập trung trong các trại, bị bóc lột tàn tệ, nên những cuộc đấu tranh nổ ra ngày càng nhiều. Những sinh viên, trí thức Việt Nam sớm giác ngộ đã sát cánh với những người thợ trong cuộc đấu tranh đó, về sau trở nên những tên tuổi được nhiều người biết như Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Nguyễn Khắc Viện, Trần Thanh Xuân, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Hoán... Hai nhà trí thức lớn là kỹ sư Trần Đại Nghĩa và bác sĩ Trần Hữu Tước theo Bác Hồ về nước năm 1946 thì đã có những cống hiến xuất sắc cho dân tộc, đặc biệt người kỹ sư mang tên bác Hồ đặt (tên thật của ông là Phạm Quang Lễ) đã từ bỏ chức vụ kỹ sư trưởng chế tạo máy bay với mức lương tương đương 22 lượng vàng, mang về nước một tấn sách khoa học kỹ thuật để làm nên nhiều loại vũ khí độc đáo trong hoàn cảnh khó khăn của Việt Nam lúc đó, trong đó có súng ĐKZ từng làm giặc Pháp kinh hồn. Ông Trần Đại Nghĩa và công trình chế tạo súng ĐKZ đều đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
Hoạt động nhiều mặt của Việt kiều ở Pháp đã được bác sĩ Nguyễn Khắc Viện kể lại trong cuốn “Ước mơ và Hoài niệm”, in lần đầu tại Nxb Đà Nẵng; đến năm 2017, nhân kỷ niệm 20 năm ngày bác sĩ qua đời (1997-2017), Nxb Tri thức đã tái bản và bổ sung cuốn sách với nhiều tư liệu công bố lần đầu.
Trong cuốn sách vừa dẫn, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cho biết các hoạt động rất phong phú của Việt kiều tại Pháp. Cuộc kháng chiến chống Pháp càng gần đến ngày thắng lợi, phong trào Việt kiều hướng về Tổ quốc càng lớn mạnh, đặc biệt là hai dịp biểu dương lực lượng hàng năm vào dịp ngày Hội Báo Nhân Đạo (L' Humanité – Báo của Đảng Cộng sản Pháp) và ngày Tết. Ngày Hội Báo Nhân Đạo trùng với lễ Quốc khánh Việt Nam, được tổ chức trong công viên Vincennes, ngay sát cửa ô Paris có khi thu hút đến một triệu người, các bạn Pháp dành cho Việt kiều một khu rộng để triển lãm, cờ đỏ sao vàng kéo lên bay phần phật giữa thủ đô Pháp, hàng vạn người đi qua ký kiến nghị đòi chính phủ Pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì thế, chính phủ Pháp đã cấm tổ chức Việt kiều hoạt động và tháng 12/1952, cảnh sát Pháp đã bắt mấy chục người, trong đó giáo sư Phạm Huy Thông, người phụ trách phong trào, bị giải về giam ở Sài Gòn.
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cũng có tên trong danh sách bị bắt, nhưng lúc cảnh sát ập đến nhà thì ông đi vắng. Sau ngày đó, ông phải sống cuộc sống di động, vài ngày hay vài tuần lại đổi chỗ ở. Đây cũng là lúc ông nhận trách nhiệm lãnh đạo phong trào Việt kiều ở Pháp, thay thế ông Phạm Huy Thông. Cũng may là nhờ phương pháp tập dưỡng sinh, sức khỏe ông đã dần hồi phục sau 7 lần lên bàn mổ cắt mất 8 xương sườn và hơn một lá phổi (do bị lao). Mặt khác, với bệnh án còn không đầy lá phổi, với vết mổ sau lưng còn sâu hoắm chưa liền da, nếu có bị bắt, bác sĩ nào cũng có thể chứng nhận ông không còn hơi sức đâu lãnh đạo phong trào Việt kiều.
Cuộc kháng chiến trong nước càng phát triển, nhất là trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 tiến tới chiến dịch Điện Biên Phủ, các hoạt động phối hợp của tổ chức Việt kiều tại nước đối phương càng có ý nghĩa nhưng lại khó khăn hơn trước do phải hoạt động bí mật. Nhờ mạng lưới đã xây dựng từ mươi năm trước, Paris thì phố nào cũng đông như chợ, nên ông Viện cùng các cộng sự của ông đã “qua mặt” được mật thám Pháp, củng cố 10 chi hội ở các tỉnh, ra thường xuyên tờ “Quyết thắng”, kịp thời thông tin trung thực tình hình trong nước đến kiều bào và cả các tổ chức Pháp. Kỹ sư Vũ Đình Bông, một Việt kiều về nước ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp chưa kết thúc đã nhớ lại:
“...Tờ thông tin bí mật lấy tên “Quyết thắng”, in rônêô, bài viết chủ yếu do anh Viện cung cấp. Lâu lâu, anh Viện tạt ghé phòng anh em chúng tôi ở, giao nhiệm vụ, ăn vài miếng rồi lại lặng lẽ ra đi. Đi đâu? Mấy năm hoạt động bí mật ấy, chúng tôi không có quyền hỏi... Khi có tín hiệu bị truy lùng, anh Viện thường đến chỗ tôi tạm lánh né vài hôm trên tầng lầu 5 kín đáo, ít người dòm ngó. Anh Viện có vết mổ phổi chưa lành hẳn, nên hàng ngày tôi phải thay băng bằng cách rút mảnh ga cũ có thấm nước rỉ ở hõm to bằng cái bát con ăn sâu vào bả vai, rồi luồn mành mới vào. Thấy sự chịu đựng đau đớn thể hiện trên nét mặt, càng thấy anh Viện là người có nghị lực hơn người... Có lần bị truy lùng gắt gao, anh Viện giao cho tôi di chuyển máy in rônêô đến địa chỉ mới là nhà một đồng chí người Pháp ở ngoại ô Paris. Biết việc di chuyển máy móc in ấn là bất hợp pháp, rất nguy hiểm, nhưng tôi không hề sợ. Tôi đến người bạn thân là Nguyễn Hoán mượn xe ô tô và tự lái đưa máy móc đi từ sáng tinh mơ để qua mắt kiểm soát của bọn mật thám...”
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tin tức nội bộ đối phương của lãnh đạo trong nước, ông Viện với sự cộng tác tận tình của ông Nguyễn Văn Chỉ, từ ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác, cứ mỗi buổi sáng, đi mua mười mấy tờ báo lớn của Pháp, xem chỗ nào đáng chú ý thì gạch chì xanh chì đỏ vào rồi nhờ Trung Đảng Cộng sản Pháp chuyển về Việt Nam. Anh Chỉ không phải là Đảng viên, lại có quốc tịch Pháp, nên có lợi thế trong việc quan hệ với các chính khách Pháp, nhờ đó tập hợp được nhiều tin tức để chuyển về trong nước. Ở các tỉnh cũng có một số kiều bào như vậy.
Một lần, anh Chỉ cùng ông Viện bị cảnh sát Pháp bắt, nhưng khi ông đòi cho bác sĩ vào thay băng, chúng thấy vết mổ chưa liền da sau lưng và cũng không có bằng chứng phạm pháp, nên đành phải thả. Thực ra, chúng bắt ông Viện và anh Chỉ chủ yếu để xem hai người có quan hệ gì với Mendès France (là Thủ tướng Pháp khi ký Hiệp định Genève) trước khi Điện Biên Phủ thất bại hay không, nếu có thì họ tung ra dư luận rằng Chính phủ Pháp giao bí mật quân sự cho Việt Minh, nên Pháp mới thua; nhưng hai người không khai báo gì...
Cho đến ngày 7/5/1954, khi các báo Pháp loan tin “Điện Biên Phủ đã thất thủ”, chính phủ Pháp treo cờ quốc tang, nhưng ở đâu có người Việt Nam là các bạn Pháp mua rượu tới uống, mừng chiến thắng, vì họ xem Điện Biên Phủ cũng là chiến thắng của họ. Trên các đường phố Paris, sinh viên các nước Châu Phi kéo đi từng đoàn hô lớn: Điện Biên Phủ! Hoan hô Hồ Chí Minh! Hoan hô tướng Giáp!” Cả những người thuộc phe Bảo Đại ngày hôm ấy cũng hân hoan, thấy tự hào làm người Việt Nam! Những biểu hiện đó càng chứng tỏ Điện Biên Phủ không chỉ đơn thuần là một chiến thắng quân sự mà còn có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ở Genève.
Trong thời kỳ này, theo yêu cầu của phái đoàn ta, ông Viện đã thay mặt tổ chức Việt kiều, bí mật vượt biên giới Pháp - Thụy Sĩ sang Genève báo cáo tình hình ở Pháp với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu... Do biên giới bị canh gác nghiêm ngặt, nhờ đường dây của Đảng Pháp, ông Viện đã trốn trong một chiếc xe hàng ngày chở trứng gà qua bán ở Genève vượt qua biên giới an toàn. Sau một tuần được sống thoải mái, vui vẻ cùng phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Genève - trong đó có luật sự Phan Anh là đồng hương Hà Tĩnh, ông Viện trở về Paris cũng với chiếc xe “bán trứng gà”, tiếp tục hoạt động bí mật...
Mãi đến năm 1956, Chính phủ Pháp mới đồng ý cho Hội Liên hiệp Việt kiều hoạt động công khai và lúc đó, ông Viện mới chính thức được bầu là “Tổng Thư ký”. Phong trào Việt kiều ở Pháp ngày càng hoạt động sôi nổi, nhưng sau này nhớ lại mấy chục năm ở Pháp, ông Viện nói rằng: những ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ là những ngày vui sướng nhất...
*
70 năm đã qua từ những ngày vui đặc biệt của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cùng bà con Việt kiều tại Paris… Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trở về nước năm 1963, tiếp tục cuộc “chiến đấu” trên mặt trận ngoại giao và văn hoá. Tròn 10 năm sau - đầu năm 1973, sau những ngày bám trụ tại Hà Nội, chứng kiến hàng loạt pháo đài bay B52 của không quân Mỹ bị bắn rơi trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, đúng vào lúc Mỹ buộc phải ký Hiệp nghị Paris, rút quân khỏi Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện được mời qua Pháp để cùng làm phim về Việt Nam… Với một người dành tất cả tâm huyết cho hai cuộc kháng chiến của dân tộc như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, được chứng kiến việc ký kết cả hai Hiệp định đem lại hòa bình cho Việt Nam là một điều kỳ thú và cũng là hạnh phúc…
Ngày rời Paris về nước năm 1963, ai cũng nghĩ với điều kiện sống còn nhiều khó khăn ở miền Bắc lúc đó, một người bị cắt 8 xương sườn và hơn một lá phổi như ông Viện chỉ có thể sống được vài năm. Vậy mà bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nhờ luyện tập khí công - dưỡng sinh, đã sống thêm được hơn ba chục năm, trong khi vẫn đảm nhiệm trọng trách ở hai cơ quan sách, báo đối ngoại (Nhà xuất bản Ngoại văn và hai tờ báo), đi 20 nước khắp các châu lục để tuyên truyền cho Việt Nam và công bố thêm hàng loạt tác phẩm mà đồng chí Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, đánh giá là “một di sản đồ sộ”… Một điều như là nghịch lý mà cũng kỳ thú là năm 1992, Viện Hàn lâm Pháp đã trao tặng bác sĩ Nguyễn Khắc Viện Giải Thưởng Lớn về Pháp ngữ (Grand prix de la Francophonie) với tiền thưởng đến 400.000 Frans (tính ra tiền Việt Nam cả tỷ đồng; phần lớn số tiền này, ông Viện đã ủng hộ một số việc công ích, trong đó có công trình xây Trạm Y tế xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn). Đây là giải thưởng lớn nhất của Viện Hàn lâm Pháp, ông Viện người thứ 7 trên thế giới được tặng thưởng, do đã viết và dịch ra tiếng Pháp nhiều tác phẩm có giá trị - trong đó có “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du. Đến nay, cũng vừa tròn 60 năm, kể từ khi bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nhận trọng trách dịch “Truyện Kiều” ra tiếng Pháp để kịp có sách đưa ra nước ngoài trong dịp UNESCO kỷ niệm 200 năm ngày sinh và tôn vinh Nguyễn Du là danh nhân văn hoá thế giới…
Việc bác sĩ Nguyễn Khắc Viện được Viện Hàn lâm Pháp tặng Giải Thưởng Lớn gọi là “nghịch lý”, vì người hoạt động chống thực dân Pháp quyết liệt ngay giữa thủ đô Paris lại được Viện Hàn Lâm Pháp tôn vinh, mặc dù “một số người lại tỏ ra cay cú. Họ thắc mắc tại sao Viện Hàn lâm Pháp lại tặng giải thưởng cho một cán bộ Việt cộng?... Viện Hàn lâm đã trả lời: Viện hàn lâm đứng về học thuật và văn học, chứ chính trị không phải là vấn đề của họ. Học thuật là của mọi người…” (Trích từ sách đã dẫn). Có thể nói thêm: một đất nước biết quý trọng các giá trị văn hoá như thế nên đã có những tên tuổi được cả thế giới ngưỡng mộ như V. Hugo, Balzac, L. Aragon, A. Camus … Một danh sách rất dài!
Cho đến ngày 10/5/1997, buồng phổi đã bị cắt hơn một lá tại Paris từ hơn nửa thế kỷ trước của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện mới chịu ngưng thở. Chủ tịch nước Việt Nam đã tặng ông Giải thưởng Nhà nước, Huân chương Độc lập hạng Ba và hạng Nhất… Những điều này hẳn là nhiều bạn đã đã biết…
T.S