Từ ngã tư Cầu Mương đi Thạch Đồng, rẽ sang phải gặp dòng sông có cái tên tội tội, thương thương: sông Cụt. Tả ngạn dòng sông là con đường mang tên danh họa Nguyễn Phan Chánh. ...
Quê tôi, phố xá còn ít nhưng danh nhân thì nhiều. Vài trăm đường phố, xã phường làm sao kể hết tên những người nổi tiếng. Liên hệ đến những miền quê khác, tôi không khỏi tự hào rằng: nếu Thành Sen nhỏ bé của tôi tiến đến thành phố lớn thì cũng chẳng phải đi tìm tên anh hùng kẻ sĩ xứ khác để đặt cho đường sá, địa danh. Vì vậy, tôi không mấy băn khoăn khi một họa sĩ như cụ Chánh, người đã từng làm rạng danh cho nền mỹ thuật Việt Nam một thuở lại phải ẩn mình ở con đường nhỏ ven sông này.
Cuộc đời hội họa của cụ Nguyễn Phan Chánh, những tác phẩm như “Chơi ô ăn quan”, “Rửa rau cầu ao” của cụ đã gây tiếng vang lớn trong nước, ở Paris và trên thế giới từ những năm cuối thập kỷ 20 của thế kỷ 20. Người ta đánh giá cụ là “Người sáng lập ra tranh lụa Việt Nam”, “Họa sĩ đầu tiên đưa tranh lụa Việt Nam vào nền hội họa thế giới”. Người ta biết đến một đời sống của nông thôn Việt Nam qua những bức họa hiện đại mà mang đầy bản sắc dân tộc của cụ. Tôi không biết gì về hội họa nên chẳng dám bàn. Chỉ biết tôi là đồng hương với cụ, nhà danh họa nổi tiếng từ lâu, chỉ biết ở quê tôi nhiều, rất nhiều người biết đến tranh và danh của cụ. Rất nhiều người treo tranh, cả ảnh truyền thần của cụ đã vẽ nữa. Mà ảnh truyền thần thì quả thật, cụ vẽ như… thần. Tôi cũng từng nghe những nhân vật nữ trong tranh của cụ, có nhiều bức cụ lấy hình bà vợ hiền dịu cùng cô con gái lớn xinh đẹp của mình làm nguyên mẫu.

Một lần được đi dự trại viết văn của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ở Đồ Sơn tôi gặp chị, người phụ nữ có vẻ ngoài thật khó đoán tuổi làm tôi lúng túng xưng hô. Nhà văn Dương Duy Ngữ phụ trách trại bảo tôi: “Người Hà Tĩnh đây, Nhà văn Nguyệt Tú, con gái họa sĩ Nguyễn Phan Chánh”. Chị mỉm cười hỏi: “Em quê Hà Tĩnh à?”. Tôi đáp: “Vâng! Nhà em gần Nhà lưu niệm của Hoạ sĩ ạ”.
Thế là chị em tôi thân nhau. Thỉnh thoảng rảnh rỗi, tôi lại xuống phòng dưới nơi chị ở để nghe chuyện của chị về Thành Sen, về danh hoạ Nguyễn Phan Chánh và về những ngày sôi động của Cách mạng tháng Tám ở quê hương:
Tên thật của chị là Nguyễn Nguyệt Tuệ, sinh năm 1925. Chị đến với cách mạng trong những ngày còn là nữ sinh Đồng Khánh (Huế), tham gia phong trào Việt Minh ở thôn Vĩ Dạ khi chị về làm gia sư ở đó. Mùa hè năm 1945, với chủ trương "Ai quê ở đâu về đấy hoạt động, chờ thời cơ", chị trở về Hà Tĩnh tiếp tục tham gia cách mạng.

Nữ sinh Đồng Khánh Nguyễn Nguyệt Tú
Cụ Nguyễn Phan Chánh thời kỳ này làm nghề vẽ truyền thần để kiếm sống, khi thấy cờ đỏ sao vàng xuất hiện chỗ này, chỗ kia, cụ vui mừng động viên vợ con, làng xóm: “Hoàng tinh xuất thế báo sẽ có điều kỳ diệu đến”. Và ông nói “Nếu Việt Minh về đây, tôi hoan nghênh, ủng hộ ngay. Tuy tôi chưa được gặp Việt Minh, nhưng biết họ chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Chị Nguyệt Tú hoạt động trong Việt Minh tại thị xã Hà Tĩnh do anh Hoàng Kim Hải phụ trách. Phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh lúc đó thật sục sôi. Ngày 16/8, huyện đường Can Lộc đã bị quần chúng chiếm; ngày 17/8 các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà nhân dân đã nổi dậy cướp chính quyền. Ngày 18/8, bọn Nhật và chính quyền thân Nhật của Trần Trọng Kim tại Hà Tĩnh tổ chức họp toàn thể các nhân viên, công chức đang làm việc cho chúng. Nhân dịp này, lãnh đạo Việt Minh tỉnh đã biến cuộc họp của chúng thành cuộc mít tinh của ta, sáng 18/8/1945, chị đứng đầu đoàn đại biểu trong cuộc mít tinh lớn đó.
Người diễn thuyết trên lễ đài là thầy giáo Nguyễn Danh Dương. Anh Phạm Lương, con bà Quản Du bán nứa ở xóm Cầu Mương oai vệ cầm kiếm đứng bên làm vệ sĩ. Anh Dương kêu gọi những người Việt Nam yêu nước hãy vì quyền lợi của dân tộc mà ủng hộ Việt Minh, chống lại Nhật, Tây. Cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình tiến về Tòa sứ Hà Tĩnh. Chị đi đầu trong đoàn người, tay giương cao lá cờ lớn nền đỏ sao vàng cùng một số cán bộ cốt cán của ta tiến lên dinh tòa sứ. Chị cũng không biết ai đã trao cho chị lá cờ vào giờ phút thiêng liêng đó. Tỉnh trưởng Hà Tĩnh là Hà Văn Đại mang ấn tín giao cho chính quyền cách mạng. Đồng chí Phan Đăng Tài - em ruột nhà cách mạng Phan Đăng Lưu - là cơ sở của ta trong chính quyền thân Nhật đã nhận ấn tín từ tay Hà Văn Đại. Hà Văn Đại mặc áo lương dài đen, quần trắng, chít khăn đóng màu đen đi giày hạ, hai tay nâng chiếc triện tỉnh trưởng dâng lên, nét mặt không một dấu hiệu xót xa, nuối tiếc. Sở dĩ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Hà Tĩnh diễn ra suôn sẻ không một phát súng, không có đổ máu là bởi vì khí thế quần chúng sục sôi như nước vỡ bờ, chính quyền sở tại quá lung lay, bọn Nhật đóng trong nhà Xéc (Cerele) của sĩ quan Pháp trước đây đã nhận được thư của Uỷ ban cách mạng yêu cầu không tham gia công việc nội bộ của Việt Nam nên án binh bất động, bản thân Tỉnh trưởng Hà Văn Đại đã được Việt Minh tiếp xúc thuyết phục… (Các con của ông Đại là Hà Văn Hạp, Hà Văn Mão đều hoạt động trong tổ chức Việt Minh, anh Hạp sau này là phóng viên của báo Nhân Dân).
Ủy ban Lâm thời tỉnh Hà Tĩnh được thành lập, cả gia đình hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh lao vào công tác mới, hồ hởi tự tin. Hoạ sĩ được cử làm Ủy viên thường vụ Văn hóa cứu quốc; chị Nguyệt Tú được phân công làm Phó Bí thư Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Hà Tĩnh, bà Chánh tham gia Ban úy lạo binh sĩ (sau này là Hội trưởng Hội mẹ chiến sĩ); cậu em trai của chị là Nguyễn Phan Quang trở thành đội trưởng Thiếu niên cứu quốc…
Chị hồ hởi: “Ba tôi miệt mài với những bức chân dung của lãnh tụ. Bức vẽ ảnh Bác Hồ cao hơn hai mét đặt trên khán đài sân vận động Hà Tĩnh tại buổi lễ ra mắt chính quyền cách mạng tỉnh cụ vẽ suốt đêm. Ảnh các đồng chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập cụ vẽ theo ảnh trong hồ sơ của mật thám Pháp”. Chợt chị phàn nàn: “Hồi ấy, sau khi giành được chính quyền, chẳng hiểu sao có cán bộ khởi nghĩa lại ra lệnh cho anh em đốt hết không để lại giấy tờ gì của Pháp. Trong đó có bao nhiêu hồ sơ của cán bộ ta và cả hồ sơ kẻ làm việc cho địch. Cậu Nguyễn Phan Quang nhà tôi nhặt được những tấm ảnh lãnh tụ chưa kịp cháy mang về. Riêng ảnh chị Nguyễn Thị Minh Khai là do anh Huy Dung, em ruột chị Minh Khai mang đến từ một tấm căn cước”. Chị bảo rằng tất cả những tấm ảnh đó ông cụ đều vẽ to ra trên khổ giấy lớn bằng chì than. Sau cuộc mít tinh ra mắt Ủy ban nhân dân Cách mạng, cụ lại mang những tấm ảnh đó đi về các vùng dân cư để tuyên truyền cho cách mạng.
Nhà văn Nguyệt Tú (người thứ 3 hàng đầu từ trái sang) trong một lần được gặp Bác Hồ
Cuối năm 1945, chị được bầu là đại biểu đi dự Hội nghị Phụ nữ cứu quốc miền Trung tại Huế. Ở cuộc họp này, chị được gặp đồng chí Nguyễn Chí Thanh lúc đó là Bí thư Khu ủy Trung Bộ. Thấy chị trẻ, có học, hăng hái, đồng chí Nguyễn Chí Thanh rất quý chị. Năm 1946 về họp với Tỉnh ủy Hà Tĩnh, khi ông lên kiểm tra ở Hương Khê thì gặp chị đang xắn quần, cắp nón lá đi về mở lớp huấn luyện cơ sở giữa vùng núi rừng hẻo lánh, đồng chí nói với chị Lê Quế trong Ban chấp hành phụ nữ miền Trung: “Cho o này ra Hà Nội học để đào tạo cho ngày mai”. Tháng 6 năm đó, chị được điều ra Hà Nội học lớp cán bộ thanh vận, sau đó học trường Phan Chu Trinh do cụ Đặng Thai Mai làm hiệu trưởng. Năm ấy chị vừa tròn 20 tuổi. Và cũng thời gian này, chị gặp anh Lê Quang Đạo, người trai Kinh Bắc, Bí thư Thành ủy Hà Nội. Anh chị yêu nhau rồi nên vợ nên chồng. Khi kháng chiến bùng nổ, chị lên Việt Bắc cùng cơ quan Hội phụ nữ Việt Nam, làm báo Phụ nữ, sau đó chị được điều vào quân đội, làm ở Cục Tuyên huấn; phóng viên báo Nhân Dân rồi làm Tổng biên tập báo Phụ nữ Việt Nam…
Chuyện gia đình hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh chuyển ra Hà Nội sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, chị kể rằng:
- Những năm 1923 - 1924 ba tôi dạy học ở Đông Ba (Huế) mà cứ tơ tưởng theo nghề vẽ. Rồi có người cho mượn bộ đồ vẽ, cụ đã vẽ bức tranh tả cảnh đàn cò trên cánh đồng quê và gửi dự thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Cả miền Trung lúc đó có hơn trăm người dự thi, chỉ mình cụ đỗ. Thế là lẽ ra “Tam thập nhi lập” thì cụ nhà tôi quá tam thập mới đi học nghề. Nghề định mệnh của mình. Ra trường, cụ được phân về dạy trường Bưởi. Tổng giám thị người Pháp rất mê bức tranh “Hai chị em” của cụ. Vì bức tranh này đã có người mua, ông ta bảo cụ vẽ lại bức tranh y hệt như vậy. Cụ bảo: “Tôi là họa sĩ chứ đâu phải là thợ vẽ mà ông bảo tôi sao chép”. Lão Tây thù ông, chỉ cho nhận lương công nhật chứ không bổ nhiệm chính thức. Một hôm cụ nửa đùa nửa thật bảo với mẹ tôi: “Thế là bể niêu rồi”. Cả nhà lục tục kéo nhau về Hà Tĩnh, dùng số tiền bán tranh ở Pháp tậu mảnh vườn, xây căn nhà nho nhỏ bên sông Cụt - chính là nơi xây dựng Nhà lưu niệm hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh. Năm 1956, tờ báo “Văn” mời cụ ra cộng tác, cụ lưỡng lự không muốn xa quê nữa. Các anh ở tòa báo đăng tin là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh đã ra làm việc ở Hà Nội rồi. Bất đắc dĩ cụ mới ra đi…

Chị Nguyệt Tú và tác giả bài viết
Cuộc gặp gỡ ngày ấy đã 26 năm rồi, Nhà văn Nguyệt Tú đã về cõi tiên ở bách tuế (9/2024) đến tháng 9 này là giỗ đầu của chị; nhân kỷ niệm 80 năm ngày Cách mạng tháng 8 thành công, tôi ghi lại lời chị kể về một thời oanh liệt, hào hùng của quê hương và dân tộc.
Sài Gòn, 10/8/2025
BQT