05-05-2025 - 00:08

Đến với văn học trong mở đầu thế kỷ XXI - Qua những thế hệ viết

Tạp chí Hồng Lĩnh số đặc biệt 223+224/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Đến với văn học trong mở đầu thế kỷ XXI - Qua những thế hệ viết” của GS. Phong Lê

I

Nếu khoảng cách là một thập niên, hoặc một con giáp (12 năm) làm nên một thế hệ viết thì, theo cách tính của tôi, văn học Việt Nam sau 1945 cho đến nay đã chứng kiến sự xuất hiện và tiếp nối của hơn 5 thế hệ viết. Đó là các thế hệ: tiền chiến, chống Pháp, chống Mỹ gắn với Đổi mới, rồi chuyển qua Hội nhập với mốc lớn là năm 1995 hoặc năm 2000.

Dưới đây là 3 nhận xét sơ bộ.

1. Bất cứ thời nào của sự phát triển văn học kể từ sau 1930 (năm chính thức mở đầu thời hiện đại của lịch sử văn chương Việt), các lực lượng trẻ (lứa tuổi từ ngoài 20 đến trên dưới 30) cũng đều đóng vai trò chủ lực - làm nên gương mặt chung của đời sống văn học qua từng thập niên.

Hiện tượng đó gần như là một quy luật.

Thời 1930 - 1945 gồm hầu hết các tên tuổi tiêu biểu trên cả 3 dòng: hiện thực, lãng mạn và cách mạng - đến 4 tác giả kết thúc là Tố Hữu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh (cùng sinh năm 1920).

Những tập thơ làm nên vinh quang bậc nhất của các tác giả như Thơ thơ của Xuân Diệu, Lửa thiêng của Huy Cận, Nước giếng thơi của Nguyễn Bính, Điêu tàn của Chế Lan Viên, Từ ấy của Tố Hữu… tất cả đều được thực hiện ở tuổi 20.

Cũng là tuổi 20 Nguyên Hồng cho in tiểu thuyết Bỉ vỏ.

Tuổi 25 của Vũ Trọng Phụng là tuổi cho ra mắt cùng lúc những tiểu thuyết tràn ngập sự đời và có giá trị để đời như Giông tố Số đỏ. Còn tuổi trên dưới 30 của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao là tuổi làm nên những tên sách sáng danh văn học hiện đại: Vang bóng một thời, Vũ Như Tô, Chí Phèo, Sống mòn.

Ấy là nói văn học trong xã hội bán phong kiến - thuộc địa trước 1945.

Văn học sau 1945, trong chống Pháp, xuất hiện từ trước sau thập niên 1950, cùng với Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài thuộc thế hệ tiền chiến là các tác giả: Trần Đăng, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Trần Dần, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc...

Văn học chống Mỹ, với thế hệ xuất hiện từ sau 1960 ở tuổi ngoài 20 và trên dưới 30 như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phan Thị Thanh Nhàn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo…

Những tên bài, tên sách hay nhất trong và sau hai cuộc chiến tranh gần như hầu hết đều đã được thực hiện ở những tên tuổi đã nêu trên…

Ấy là nói văn học trong chiến tranh - những hơn 30 năm, hoặc đúng ra là ngót 40 năm; bởi ngoài chống Pháp và chống Mỹ còn là chiến tranh ở hai đầu biên giới cũng khốc liệt và hy sinh không kém, suốt từ 1979 đến hết thập niên 1980, mà do tình thế lịch sử - cuộc chiến giữa hai phe, khiến cho cả một thời gian dài ta không (hoặc không được phép) nói đến.

Từ một lược kể như trên để nói đến một cuộc đồng hành rất ngoạn mục gồm hơn ba thế hệ viết: thế hệ tiền chiến, thế hệ chống Pháp và thế hệ chống Mỹ, gối sang thời Đổi mới - một cuộc đồng hành đã để lại cho văn học hiện đại từ sau 1945 đến nửa đầu thập niên 1990, những câu, những bài, những tập thơ, những áng văn hay nhất về lòng yêu nước và yêu dân, về chủ nghĩa anh hùng và sự hài hòa gắn kết giữa cái chung và cái riêng của Con người Việt và Tổ quốc Việt, trước một chuyển động dữ dội và những thử thách khốc liệt nhất của lịch sử. Một cuộc đồng hành có điểm tựa vững chắc nhất từ trong lịch sử - “Đội ngũ ta dài suốt bốn nghìn năm”, và từ đời sống:

Lớp cha trước, lớp con sau

Đã thành đồng chí chung câu quân hành

2. Văn học thời Đổi mới, sau một đội ngũ đóng vai trò chuyển tiếp rất nhạy cảm và dũng cảm, và cũng rất kịp thời, mà đóng góp đã rất được khẳng định như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Quang Thân, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Minh Khuê, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dạ Ngân, Phạm Thị Hoài…, là các thế hệ mới chủ yếu sinh từ thập niên 1960.

Thuộc thế hệ 6X, đây là lực lượng đông đúc nhất, theo tôi, hiện vẫn còn đang đóng vai trò quan trọng của đời sống văn học hôm nay. Họ rất dồi dào năng lượng, và có năng lực viết về mọi đề tài, và đặc biệt họ có điều kiện để gắn bó mật thiết với sự sống hôm nay, một hôm nay mang tên Hội nhập (từ 1995), rồi Toàn cầu hóaCách mạng 4.0 (sau 2000) cùng gối vào nhau, gắn kết với nhau, mà những người như tôi - thế hệ cuối 3X, dẫu có gắng gỏi đến mấy cũng chỉ có thể là người đồng hành, ngắm nhìn và suy tư trong tư thế không thể hoặc khó được xem là người đại diện hoặc trong cuộc!

Tập huấn Chuyên đề “Nhận diện văn học đương đại 
và trao đổi kỹ năng sáng tác”. Ảnh: Linh Châu

Cần lưu ý thế kỷ XX là thế kỷ diễn ra nhiều chấn động, chuyển động dữ dội, qua các mốc lịch sử 1930 và 1945, 1945 và 1975, 1986 và 1990, 1995 và 2000. Có nghĩa là càng về sau, càng ngắn, càng gấp gáp. Chưa bao giờ trong lịch sử và lịch sử văn học dân tộc lại diễn ra nhiều sự kiện lớn, vừa dồn dập, vừa gối vào nhau theo một gia tốc nhanh gấp như thế.

Còn nếu tính từ 2000 trở đi thì đó là một chuyển động gần như ngoài sức tưởng tượng và bao trùm tất cả - để đưa dân tộc thoát ra khỏi mọi phong bế (của xã hội thuộc địa - phong kiến trước 1945, của chiến tranh - 40 năm, của tình thế hai phe - 40 năm) mà hội nhập vào nhân loại trong bối cảnh Toàn cầu hóa và Kỷ nguyên thông tin cùng Cách mạng 4.0.và Trí tuệ nhân tạo (A.I.)

Tình thế mới này của lịch sử càng đòi hỏi văn học phải chuyển đổi bằng sức vóc của các thế hệ trẻ; chứ không phải tuổi trung niên, hoặc tuổi … già, bởi phải trẻ mới có được những tiềm năng mới, những dũng cảm mới, những giác quan mới trong bám sát và theo kịp thời cuộc, để đưa dân tộc vào một cuộc hành trình lớn với nhân loại.

3. Như đã nói ở mục 1, một đặc điểm khá nổi trội ở đội ngũ nhà văn ta, trong suốt một thời dài, từ sau 1945 cho đến cuối thập niên 1990, đó là sự đồng hành của nhiều thế hệ, từ 3X đến 7X. Không kể Tô Hoài, mất ở tuổi 95, mới ngừng viết từ 2014, thì đó là thế hệ 3X, gồm Hồ Phương, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê…; rồi 4X như Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Vương Trọng, Thái Bá Lợi, Tô Nhuận Vỹ, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân, Trần Nhuận Minh, Lê Minh Khuê, Dương Hướng, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Văn Thọ…. Còn từ 5X trở đi thì xem ra chưa phải đã hết vai trò là đội quân chủ lực - gồm từ Khuất Quang Thụy, Đỗ Phấn, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa…, qua Hồ Anh Thái, Thùy Dương, Tạ Duy Anh, Y Ban, Thu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh… để đến với 7X như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy, Phan Thúy Hà… Đông đảo, kết nối, ít có khoảng trống, hoặc đứt quãng, đó là điều mừng; nhưng cũng cần phải biết, phải xác định thế hệ nào là chủ công, trong quan hệ với thực tại - tức là cuộc sống đương đại, mà việc xác định đội ngũ này lại rất cần trở lại mục 1 tôi đã nêu trên. Có nghĩa là phải tập trung mối quan tâm cho các thế hệ từ sau 8X trở đi, nếu nhìn vào các mùa màng như đã diễn ra trong thế kỷ XX. Nếu chọn Vi Thùy Linh, sinh năm 1980 làm mốc, thì đội ngũ này là rất đông đảo, có tuổi nghề đã trên dưới 30 năm; có không ít tên tuổi đã nổi đình đám cả rồi.

Lực lượng trẻ, ở tuổi từ 20 đến trên dưới 30, dẫu thực tiễn thời cuộc có muốn hoặc không muốn thì tự họ vẫn đủ sức cáng đáng sứ mệnh nghề nghiệp, như kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy, và như tâm thức dân gian đã tổng kết: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”. Nếu vẫn cần có một (hoặc nhiều) Hội nghề nghiệp, có chức năng như Hội Nhà văn trong tương lai thì Hội cần đầu tư nhiều công sức cho họ, trên tất cả các phương diện của bản lĩnh bản sắc cá nhân. Bản lĩnh - đó là lý tưởng sống và hoài bão nghề nghiệp tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cả một thế hệ. Còn bản sắc - đó là cái riêng của từng người. Cả hai cần bổ sung cho nhau, chứ không bài trừ nhau. Cần tạo mọi điều kiện cho các thế hệ trẻ đi tìm và khẳng định cho được cái riêng, cái khác (bởi văn học cần sự đa dạng, và tôn trọng cả tính sáng tạo); nhưng đó là cái riêng không quay lưng hoặc xa lạ với cái chung; là cái khác nhưng không biệt lập hoặc đối trọng với cái giống, tức cái chung, cái cộng đồng - nó là khát vọng chung của Nhân dân, của Dân tộc. Còn Nhân dân là ai, và Dân tộc là ai thì tôi tin câu trả lời của mọi người viết chân chính, đích thực sẽ không khác nhau là mấy!

II

Cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác của đời sống tinh thần, nói sự phát triển của văn học là nói đến một quá trình, với sự tiếp tục của nhiều thế hệ. Thời nào trong lịch sử cũng thế. Nhưng có điều cần lưu ý, thế kỷ XX, khác với bất cứ thế kỷ nào trước đó, là một thế kỷ có quá nhiều biến động, và là những biến động mang tính nhảy vọt. Nếu ở đầu thế kỷ là cuộc chuyển giao từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại, trong bước ngoặt từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa, thì giữa thế kỷ là một cuộc cách mạng và ngót 40 năm chiến tranh nhằm giành trọn vẹn mục tiêu Độc lập, Tự do cho dân tộc; và cuối thế kỷ là một khát vọng Đổi mới, đưa đất nước vào một cuộc hội nhập lớn với nhân loại, để chuyển lên đường ray của sự phát triển. Trước những biến động lớn như thế văn học không thể đáp ứng bằng một sự phát triển tiệm tiến, bình thường. Mà phải bằng những nỗ lực lớn mang tính chuyển đổi cách mạng. Để có đủ tiềm lực và hành trang cho một chuyển đổi mang tính cách mạng như thế, văn học, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, kể cả kinh tế, chính trị, cần đến những lực lượng trẻ; mà nói trẻ là nói đến những thế hệ trên dưới tuổi 30, thậm chí là 20. Đó là tuổi 20 và ngót 30 của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Bích Khê, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Tô Hoài, Anh Thơ, Tế Hanh... làm nên thành tựu mang tính nhảy vọt của thời kỳ văn học 1930-1945. Đó cũng là tuổi 20 của Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ... Của Triệu Bôn, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Vương Anh, Y Phương, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ... Của Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy... Của Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Anh Ngọc, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Trần Nhuận Minh... làm nên thành tựu văn học thời kỳ 1960-1975. Chuyển sang thời Đổi mới, một thế hệ trẻ như thế là chưa thể xuất hiện ngay, mà phải được chuẩn bị, trong sự tiếp nối của hơn một thế hệ chuyển tiếp, kể từ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu...; qua Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Chu Lai, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Dạ Ngân, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài... Rồi Nguyễn Quang Lập, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa,  Inrasara, Dương Thuấn, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thùy Dương, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh... Một thế hệ trẻ ở tuổi ngoài 20, rồi 30, thuộc thế hệ 7X và 8X - để có thể làm nên, hoặc làm chủ gương mặt văn học sau 1995, rồi sau 2000, đó là điều chưa dễ xác định, dẫu những tên tuổi gây ấn tượng trong họ thì lúc nào cũng có, kể từ Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Thị Bích Thuý, Phan Triều Hải, Phan Hồn Nhiên, Phan Việt, Nguyễn Đình Tú, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh, Nguyễn Trương Quý, Meggi Phạm... Thế nhưng, nhìn trên tổng thể thì dường như sự tiếp tục này, trong tư thế một đội ngũ là chưa thật rõ lắm. Họ có thể rất đông đúc, và gây nhiều ồn ào; có thể xuất hiện hàng ngày trên báo, đài trong chủ ý tuyên truyền, quảng bá của hệ thống thông tin đại chúng; có thể gợi lạ, hoặc gây “sốc” cho người đọc, để làm cồn lên dòng chảy đã có; nhưng để làm nên một giòng chảy mới như các thời kỳ trước thì chưa hẳn đã có. Đó là điều, theo tôi, làm cho gương mặt văn học từ Đổi mới sang Hội nhập, trong nửa sau của nó, kể từ mở đầu thế kỷ XXI đến nay, với độ dài chẵn 25 năm còn chưa gây được một ấn tượng mạnh mẽ, vượt trội, và thật là tưng bừng, ngoạn mục, trong so sánh với các mùa gặt lớn của lịch sử, và trong tương quan với thời cuộc.

Từ tình hình trên, tôi nghĩ đến một thế hệ viết mới là đại diện đích thực cho văn học tương lai – vừa là sản phẩm lại vừa là chủ thể của chính hoàn cảnh hôm nay; một thế hệ mới trong tư cách một đội ngũ, vừa làm chủ được các phương tiện thông tin, vừa tiếp cận và tiếp nhận được tinh thần và dấu ấn thời đại.

Một thế hệ không chỉ ở lứa tuổi 7X và 8X đang là chủ lực hôm nay mà phải là 9X, hoặc nửa sau 9X.

Chỉ riêng thế hệ nửa sau 8X và nửa đầu 9X, nếu theo dõi thị trường sách thì đó là cả một biển sách, mà sức tôi không thể nào bám xuể, dẫu biết chắc trong đó có rất nhiều cái hay, cái mới, cái lạ.

Phải một thế hệ như thế, với bản lĩnh cá nhânsức mạnh của đội ngũ mới có thể đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt mang tính cách mạng như đã từng diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XX; và đang tiếp tục được đón đợi, với quy mô và tầm vóc lớn hơn, vào nửa đầu thế kỷ XXI; tôi tin tưởng là thế.

Và với thế hệ đó, mọi đường biên hoặc đường viền cho văn học dường như đang được nới rộng ra, và được đẩy xa hơn về phía trước, khiến cho viễn cảnh của nó bỗng trở nên mơ hồ, khó hình dung, nhưng do thế mà càng hấp dẫn.

Trở về với thời điểm hôm nay, khi mà trách nhiệm lịch sử đang được chuyển sang thế hệ 8X và 9X, gần như số rất lớn đều không mang Thẻ hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là thế hệ mà chiến tranh và chủ nghĩa xã hội, rồi chủ nghĩa xã hội thời hậu chiến, chỉ còn là một hồi quang qua ký ức của người thân và sách vở.

Nói cách khác họ được hưởng một bầu khí quyển khác, để có thể tuyệt đối yên tâm trong cốt cách của mình, trong mục tiêu đi tìm cái riêng, cái cá nhân, cái khác biệt cho mình. Họ đã hết bị vướng víu bởi cái Ta hoặc cái Chúng ta như bao thế hệ cha ông, qua nhiều chục năm, do áp lực của các loại cộng đồng lớn nhỏ khiến cho cái Tôi riêng không chỉ là nhỏ bé, mà còn trở nên cô đơn, lạc loài… Bây giờ thì bất cứ ai cũng đều có quyền thỏa sức đi tìm cái riêng, cái khác, cái để được là mình. Vấn đề là cái riêng ấy có va chạm, xung khắc hoặc đối nghịch gì với cộng đồng, những cộng đồng khó tránh như Tổ quốc, như Nhân dân, mà những người mang danh hoặc nhân danh là nhà văn, vẫn cần và càng cần sự gắn bó.

Cuối cùng, nhìn tổng thể văn đàn thế kỷ XX, gồm cả trước và sau mốc 1975 cho đến nay - đó là sự tiếp nối và đồng hành của dăm bảy thế hệ viết – kể từ bút lông, sang bút sắt (hoặc bút bi) đến bàn phím; và bây giờ là thời thống trị tuyệt đối của bàn phím. Trong một thế giới đang được kết nối, và với vai trò con người cá nhân nổi lên bên cạnh vai trò của các quốc gia, các cộng đồng dân cư, mỗi cá nhân có thể vươn ra toàn cầu theo cách riêng của mình để sáng tạo, thông qua hàng loạt phương tiện mới của “thế giới phẳng” như công cụ tìm kiếm (google), phần mềm xử lý công việc (work flowe), khả năng tải lên mạng (uploading), từ điển wikipedia; với những khả năng như thế cho bất cứ ai làm chủ được phương tiện thông tin thì mọi yêu cầu gọi bằng “cởi trói” cho tự do sáng tạo, cho khát vọng của cá nhân sẽ trở thành câu chuyện thừa. Trong một thế giới như thế, văn học cũng như mọi lĩnh vực hoạt động tinh thần khác cũng phải biến đổi; và sứ mệnh đó đang được giao cho một thế hệ mới, thế hệ tuổi từ 20 đến trên dưới 30 như trên đã nói, được xem là thế hệ @ trên khắp các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật. Là người chứng kiến và có tham gia ít nhiều vào hành trình văn học của thế kỷ XX đã qua, tôi rất khao khát được thấy sự xuất hiện của họ trong tư cách một đội ngũ vừa tinh anh, vừa hùng hậu, rất khác nhau trong phong cách mà vẫn không nhòa mờ một khát vọng chung của Nhân dân, của Dân tộc; và một gương mặt chung in đậm tinh thần và dấu ấn thời đại./.

Hà Nội, Tháng 3 năm 2025 

P.L

. . . . .
  00:00           
00:00
 
00:00