07-11-2019 - 06:21

Làng cá Xuân Hội - Tạp chí Hồng Lĩnh

Dẫu dong thuyền ra khơi không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường khủng hoảng, giá xăng dầu tăng cao, nhưng đối với ngư dân làng biển Xuân Hội (Nghi Xuân) không ai không yêu biển. Biển chính là kho bạc khổng lồ và cũng là nơi thử sức, thử tài, thử lòng kiên nhẫn của ngư dân để khai thác ngư trường, tìm tôm cá nuôi sống cho mỗi gia đình và góp phần tăng thu nhập cho xã hội. Tạp chí Hồng Lĩnh số 159 hân hạnh giới thiệu ghi chép "Làng cá Xuân Hội" của tác giả Phan Thế Cải.

        Gặp lại cựu chủ nhiệm đánh cá:

       Có lẽ hơn mười bảy năm rồi, tình cờ trong chuyến đi công tác này tôi gặp lại ông Nguyễn Anh Vựng tại trụ sở UBND xã Xuân Hội. Ông Vựng ôm chầm lấy tôi,  trong đôi mắt đầy xúc động. Sau vài phút hàn huyên, ông Vựng bảo “Bài chú viết “Người chèo thuyền vững lái” đăng báo Nhân dân dạo nọ, hiện giờ tôi vẫn còn lưu giữ lại trong tủ. Thỉnh thoảng lại mở ra xem”. Lời tâm sự ấy khiến tôi ngạc nhiên bởi xa xưa lắm rồi, nghề viết đi nhiều viết khỏe như tôi, tôi làm sao nhớ nổi. Nhưng với riêng ông Vựng, một lời động viên của báo chí dẫu khiêm tốn thôi cũng vẫn mãi trở thành kỷ vật thiêng liêng để ông trân trọng. Bất chợt những ký ức về  ông Vựng thời trẻ và khí thế làm ăn Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường ngày ấy lại như những con sóng xanh dào dạt vỗ vào tâm hồn tôi. Hồi đó vào khoảng năm 1987, ông Nguyễn Anh Vựng làm chủ nhiệm Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường, một trong những Hợp tác xã đánh cá làm ăn thịnh vượng nhất miền Bắc. Ông Vựng quản lý 20 đội thuyền nghề vó ánh sáng. Mặc dầu, thuyền lúc đó nhỏ, công suất không lớn, nhưng bằng kinh nghiệm đánh bắt cổ truyền nên các đội thuyền của ông bao giờ cũng “dò đúng luồng cá đi”.  Biển bao la, chỉ có tình biển và cánh chim hải âu,  làm “sức gió nội lực” giúp cho những người dân đùm bọc thương yêu nhau hơn, sống nghị lực hơn để có thêm nhiều mẻ cá bạc đầy ắp phiên chợ sớm, chợ chiều và trở thành sản phẩm đóng hộp xuất khẩu đến với nhiều nước bạn. Cơ chế bao cấp, nhà nước “rót dầu” cho Hợp tác xã đánh bắt rồi nộp sản phẩm theo kế hoạch cho ngành thủy sản. 20 đội thuyền vó của ông Nguyễn Anh Vựng quản lý lúc đó, đã trở thành “minh tinh màn bạc” với sản lượng đánh bắt hàng trăm tấn cá, bao giờ cũng về vượt kế hoạch và về đích trước thời gian. Chủ nhiệm Nguyễn Anh Vựng được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quốc, được bầu làm đại biểu Quốc hội. Hợp tác xã đánh cá Hùng Cường được Chủ tịch nước tặng lẵng hoa chúc mừng thành tích xuất sắc. Thế nhưng, cánh nhà báo như bọn tôi gặp được ông Vựng chủ nhiệm HTX đánh cá Hùng Cường không phải dễ, bởi ông Vựng không có thời gian rảnh rỗi, hễ cứ đưa cá lên bờ an toàn là ông lại vội vã ra khơi cùng bạn thuyền. Tôi phải nhờ một người quen biết ông trong làng, kiên nhẫn mai phục mới bám được với ông làm việc ngay trên thuyền. Sau một đêm thức trắng trên biển, mới thực hiện đúng chủ đề tuyên truyền theo tinh thần của tòa soạn Báo Nghệ Tĩnh.

       Ông Vựng lởi xởi: “Nhanh quá chú hè, tui năm ni đã gần 70 tuổi rồi. Cũng may mắn cho tôi là con cái làm ăn được cả rồi. Tui giờ không đi khơi nữa, nhưng vẫn đi lộng câu mực”. Bác Liệu đứng cạnh phụ họa thêm: “Nhìn ông Vựng gầy như rứa, nhưng sức còn dẻo dai lắm, đêm mô ông cũng đi câu”. Bác Liệu cho biết, tập quán ngư dân Xuân Hội, lòng đam mê nghề chài lưới không kể chi già trẻ, loại trừ những người ốm đau nằm dính chiếu, chứ còn sức khỏe còn bươn ra biển. Nhiều cụ già Xuân Hội, tuổi tám mươi rồi nhưng đêm đêm vẫn dong thuyền nhỏ, đỏ đèn, dằng lưới đánh cá, câu tôm, câu mực. Các cụ còn kháo nhau rằng: “Đời chẳng có gì khoái bằng câu được mẻ mực to, luộc lên ăn tại chỗ trên thuyền, nhâm nhi thêm chút rượu quê. Lúc đó cái chân đỡ mỏi, bắp chân, bắp tay săn hơn..”.

       Chiều nay, tôi thong thả dạo trên bãi biển Xuân Hội, biển vẫn êm đềm. Đài tiếng nói Việt Nam vừa thông báo bản tin thời tiết thay đổi, sắp có “rét nàng Bân” nên biển không xanh thắm như ngày nắng. Dọc bãi cát vàng thoai thoải, những con sóng bạc đầu vẫn nối đuôi nhau mải miết vào bờ. Đâu đó một vài con thuyền lớn vừa chuyến đi lộng dài ngày về, mấy lão ngư đang ngồi nghễu nghện hút thuốc lá thư giãn. Một bà lão tên là Chương (xóm Hội Thủy) ăn vận đồ đen, lưng đã còng nhưng bà vẫn cặm cụi đào những đào xới những  luống cát ở gần mép sóng. Khi con sóng xô vào ướt bàn chân, bà Chương dừng lại, sóng dạt ra xa bà lại tiếp tục đào. Tôi tiến lại gần, lân la hỏi chuyện, bà Chương cho biết cái rổ mà bà đang mang theo cạnh người kia là những con dắt biển. Bà bảo: “Nghề cào dắt khỏe hơn dân đi cào hến ở sống nhiều. Mỗi ngày siêng năng cũng thu nhập được 5 kg, đưa ra chợ bán mỗi ký được khoảng từ 15 ngàn đồng -18 ngàn đồng”. Càng đi dọc bãi biển quan sát, càng thấy số phụ nữ làng biển cào dắt càng đông. Một chị trạc tuổi bốn mươi, đang hướng dẫn đứa con trai mười lăm tuổi cào dắt cùng mẹ. Cuối bãi biển có chục ngư dân đang dựng lều bạt ngồi đan vá lưới.

Quà của biển - Ảnh: Lê Khánh Thành

        Những ngư dân trẻ vươn dài dặm khơi:

       Chủ tịch UBND xã Xuân Hội Võ Văn Tùng trong buổi làm việc với chúng tôi xung quanh hoạt động của làng cá Xuân Hội đã rành mạch phân tích: “Trong suốt chặng đường dài ba thời điểm lịch sử thì thời làm ăn theo lối bao cấp, nguồn ngư trường thì tôm, cá, mực, ruốc vẫn dồi dào hơn. Do lúc đó môi trường biển ít bị bom mìn hủy diệt. Chính ông Tùng cũng đã từng làm Đội trưởng một đội thuyền, lúc thắng đậm một ngày đi khơi đánh bắt được cả bốn đến năm tấn cá. Nhưng giai đoạn Xuân Hội chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nghề cá ở đây cũng có những bước thăng trầm. Đặc biệt năm 1998, Chính phủ có chính sách hỗ trợ vốn  cho ngư dân, sắm phương tiện tàu thuyền đánh bắt xa bờ. Riêng xã Xuân Hội, Nhà nước trang bị cho 8 đội tàu, mỗi đội tàu lên tới 2,3 tỷ đồng. Cứ tưởng là “ăn to mớ nậy” nhưng rút cuộc chỉ trong một thời gian ngắn “tàu xa bờ lại đắp chiếu nằm bờ”, khiến Nhà nước mất vốn, ngư dân đói ăn.. Nguyên nhân thất bại, không cần nói ra ai cũng biết, đó là do kinh nghiệm đánh bắt xa bờ còn quá non nớt, phương tiện lại sử dụng bẳng tiền Nhà nước theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Từ bài học thất bại ấy, những ngư dân làng cá Xuân Hội mới thấm dần nỗi đau, và bắt đầu tím cách tự cứu lấy mình. Họ quyết không thể để những con thuyền mình đang vận hành lại biến thành một cục sắt gỉ. vừa nặng thêm “tội thua lỗ” vừa mất đi “bát cơm, manh áo”. Thế rồi, cũng được Nhà nước nhân đạo, định lại giá trị tài sản “mềm” hơn, những con thuyền đã qua sử dụng. Các đội thuyền như Nguyễn Quang Vinh, Lê Văn Thông, Lê Hồng Ngọ, Hoàng Hồng (xóm Hội Thủy) Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Thìn, Nguyễn Quốc Rạng (xóm Hội Long) Hoàng Văn Hùng (xóm Hội Tiến) đôn đáo vay tiền ngân hàng nhằm cải hoán và phục chế lại phương tiện đánh bắt giúp mình hồi sinh. Năm 2000, năm mở đầu thiên niên kỷ mới, những đội thuyền trẻ lại chọn ngày lành tháng tốt, dong thuyền cưỡi sóng vươn khơi, và thu được hơn chục tấn cá ngay từ ngày hạ thủy. Bây giờ, cả Xuân Hội có tới 13 đội thuyền, mỗi đội thuyền có từ 18 lao động - 22 lao động, mỗi lao động thu nhập mỗi năm từ 50 triệu - 80 triệu đồng. Chủ thuyền thu nhập mỗi năm từ 500 triệu đồng - 700 triệu đồng.

       Để tường tận xem mặt một chủ thuyền đánh bắt cá giỏi, tôi theo anh Luật cán bộ phòng thủy sản Nghi Xuân xuống đội thuyền anh Trần Văn Dũng. Từ phía xa, tôi đã nhìn thấy rõ những đội thuyền đang cập bến, đứng thành những đội hình hàng dọc. Thuyền nào cũng sơn màu xanh nước biển và trên nóc cắm lá cờ đỏ chót. Phải vất vả từng động tác trườn qua dây neo, rồi cẩn thận co chân nhảy từ thuyền này sang thuyền khác, tôi mới tiếp cận được con thuyền của anh Dũng. Ông chủ thuyền đứng trước mặt tôi năm nay trạc ba mươi tuổi, đã có vợ và 2 con. Dũng có nước da đen, đôi mắt bồ câu hiền lành. Dũng thành thật kể cho tôi nghe về truyền thống đánh cá trong gia đình. Ông nội anh ngày xưa là ngư dân đánh bắt cá nổi tiếng trong làng Xuân Hội., tiếp đến cha anh cũng nắm được nghề của ông nội. Sau 7 năm tham gia bám biểm cùng cha và chú ruột, Trần Văn Dũng được tin cậy giao phó nhiệm vụ làm chủ tàu đánh bắt xa bờ. Nhờ vậy anh không chỉ tích lũy được kinh nghiệm điều khiển kỹ thuật trong đánh bắt và còn có thêm cả kinh nghiệm quản lý đội tàu, ăn chia lời lỗ trong những lần đánh bắt, tạo được không khí đoàn kết dân chủ với bạn thuyền. Từ năm 2003 đến nay, đội thuyền của Dũng đã chuyển hướng đánh bắt xa bờ bằng nghề  kéo dạ đôi. Nghề mới này anh cảm thấy yên tâm hơn. Nghề mới này anh cảm thấy yên tâm vì giảm được nhiều về chi phí xăng dầu mà sản lượng thu hoạch vẫn khá hơn. Để trở thành ông chủ thuyền, Dũng cho rằng kinh nghiệm đánh bắt và đức tính cần cù chưa đủ, mà còn phải biết tiết kiệm từng đồng tiền nhỏ góp lại thành đồng tiền to. Dù nhà cửa gia đình đang còn đơn sơ nhưng Dũng vẫn mạnh dạn dốc toàn bộ vốn liếng và vay mượn thêm ngân hàng để đầu tư tốt cho phương tiện đánh bắt. Từ khi có đội thuyền lớn, với công suất 450 CV trị giá 3,5 tỷ đồng trong tay, anh tiếp tục tạo công ăn việc làm cho 12 bạn thuyền trẻ và xông xáo. Mỗi lần ra khơi, các thuyền viên trong đội đều được ông chủ thuyền chăm sóc chu đáo. Họ ăn ngon, ăn khỏe và làm việc rất khỏe. Bây giờ các thuyền viên của Dũng ai cũng thành thạo nghề  dạ cá nổi cao tốc (với vận tốc 4 hải lý/h - 4,5 hải lý/h). Cũng nhờ có 2 chiếc thuyền có công suất lớn này, đội đánh cá của Dũng có điều kiện vươn xa hơn các ngư trường ở Thanh Hóa, Quảng Bình. Có lúc thuyền của đội anh đánh bắt cá 3 ngày- 4 ngày mới về bến một lần. Từ năm 2010 đến nay, năm nào sản lượng cá của đội anh cũng đạt sản lượng từ 450 tấn- 550 tấn. Các loại cá đưa lên bờ để giao cho khách hàng có 3 loại: Loại chế biến làm thức ăn cho lợn, loại làm phục vụ cho người, loại đưa đi xuất khẩu. Chất lượng cá của đội thuyền Dũng không bao giờ bị khách hàng chê. Chỉ hiếm một nổi thời gian vừa qua vì sự cố về môi trường biển ở Fomosa nên sức tiêu thụ có chậm hơn, giá thành có giảm đi đáng kể. Nhưng vụ cá nam năm 2017 này, thì anh tin là lợi nhuận sẽ tăng lên, bởi từ ra tết tới nay, cá tươi của thuyền anh và các đội thuyền khác đã được khách hàng ưa chuộng.

        Sức sống làng biển:

       Xã Xuân Hội (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) hiện tại có 1630 gia đình, với diện tích đất tự nhiên 1.100 ha, nhưng do điều kiện tự nhiên đất ngập mặn và đất cát bạc màu nhiều, nên chỉ có 8% người dân làm nông nghiệp. Cả làng “cơm áo gạo tiền” các gia đình đều trông cậy vào chài lưới của cha và anh. Hầu hết phụ nữ Xuân Hội đều làm công việc chăm lo bếp núc, nuôi dạy con cái rồi làm những dịch vụ trên bờ nướng cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm và chạy chợ. Tuy là làng biển, nhưng Xuân Hội văn minh hơn nhiều làng biển khác. Các gia đình trong làng ở san sát liền kề, mật độ dân cư dày, nhưng đường sạch, ngõ thoáng. Ai cũng có ý thức giữ gìn vệ sinh cho cả cộng đồng. Làng ở sát thành phố và thị tứ, nhưng không có thanh niên nào nghiện ngập ma túy và gây ra những vụ trọng án. Người dân Xuân Hội đâu chỉ biết lo cái ăn cái mặc, họ còn lo đầu tư cả cái “chữ” cho con. Theo quan điểm của họ người muốn biết sâu rộng về xã hội thì phải biết trang bị cho mình tri thức từ nhà trường và sách báo, phải sớm tham gia lao động và có kỹ năng lao động mới nên người. Tất cả lớp trẻ làng biển Xuân Hội bằng đi biển, đi lao động xuất khẩu, và học nghề để làm thợ. Hiện tại, Xuân Hội có hơn 750 lao động xuất khẩu ở nước ngoài. Nguồn lực này không nhỏ để làng biển giàu hơn. Đã mấy mùa mưa rồi, dân làng biển Xuân Hội không lo chạy bão nữa, khi con đê Hội Thống trở thành chiến lũy ngăn bão tố triều cường. Thuyền trưởng Đặng Ngọc Hòa bảo tôi : “Từ khi xây dựng quai đê chắn sóng, ân làng ăn ngon ngủ yên hơn”.

       Tôi tin rằng với chính sách thông thoáng của Nhà nước và Ngân hàng luôn tin tưởng ở ngư dân, trở thành bạn đống hành với ngư dân lúc vui cũng như lúc buồn thì dân càng tin hơn cuộc sống mưu sinh của mình trên biển. Tôi ngước mắt nhìn ra biển rộng, biển vẫn xanh thăm thẳm, làng đang dào lên sức sống từ biển, một sức sống phồn thực của những người thủy chung với biển.

                                                                                                       8/2019

                                                                                                        P.T.C

. . . . .
Loading the player...