23-05-2024 - 07:41

Nhà viết kịch PHAN LƯƠNG HẢO

Nhà viết kịch PHAN LƯƠNG HẢO

       Kịch tác gia Phan Lương Hảo sinh ngày 18/01/1928 tại xã Bùi Xá (nay là xã Bùi La Nhân) huyện Đức Thọ. Năm 1948, ông nhập ngũ tham gia đánh Pháp với chức vụ Trung đội phó. Sau khi xuất ngũ, từ năm 1955, ông chuyển công tác tại Vụ Nghệ thuật Bộ Văn hóa. Năm 1960, ông trở về quê, làm cán bộ sáng tác ở phòng Văn nghệ - Ty Văn hóa Hà Tĩnh. Năm 1969, ông là một trong những hội viên sáng lập của Hội Văn nghệ Hà Tĩnh, là hội viên Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, liên tục giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Sân khấu Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nghệ Tĩnh, Hà Tĩnh từ khóa I đến khóa IV.

       Chưa tính diễn ca, thơ Đường, Nhà viết kịch Phan Lương Hảo đã viết trên 30 vở kịch, hoạt cảnh, tổ khúc dân ca được in ấn, dàn dựng ở trung ương và địa phương, tiêu biểu là vở kịch thơ Cô Tám 1972, Mai Thúc Loan (1985), Xôn xao rừng quế (1990), Trăng soi nỗi oán (2001)… Đặc biệt, vở kịch hát Mai Thúc Loan giành được HCV tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985, vở cải lương “Xôn xao rừng quế” giành giải A trong Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1990. Kịch tác gia Phan Lương Hảo từng được trao tặng Huân chương Chiến thắng hạng Ba; Huân chương Chống Mĩ cứu nước hạng Nhất, Tặng thưởng tác giả cao tuổi của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Kỉ niệm chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật VN; Kỉ niệm chương Vì sự nghiệp Văn hóa VN cùng nhiều Bằng khen của Bộ Văn hóa Thông tin, UBND tỉnh. Ông qua đời vào ngày 21/7/2003 tại nhà riêng ở thị xã Hồng Lĩnh. Với những cống hiến xuất sắc trên lĩnh vực sân khấu, năm 2012, Nhà viết kịch Phan Lương Hảo được Chủ tịch nước truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho tập "Ca kịch chọn lọc".

Tạp chí Hồng Lĩnh số 213 tháng 5/2024 trong chuyên mục 50 năm nền văn học nghệ thuật Hà Tĩnh sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025) trân trọng giới thiệu bài viết “Con đường của sự sáng tạo không ngưng nghỉ” của nhà văn Đức Ban.

ĐỨC BAN

 

con đường của sự sáng tạo không ngưng nghỉ

                                                           

                                                              

       Mùa thu năm 1973. Tôi đi bộ mươi lăm cây số từ đơn vị TNXP ở trên rừng về Thị xã Hà Tĩnh để xem vở diễn Cô Tám của nhà viết kịch Phan Lương Hảo. Còn nhớ, tôi đã len lách giữa đám đông người vào tận bậc tam cấp nhà hát, ngước  nhìn lên sân khấu hy vọng thấy tác giả kịch bản. Mãi sau này khi tôi chuyển về Hội văn nghệ tỉnh, gặp ông hàng ngày, ngồi uống chè với ông, nghe ông nói chuyện, nghe ông đọc những trang bản thảo chưa khô mực, chẳng biết sao tôi không kể với ông chuyện ấy. Ông có biết những vở kịch dân ca của ông đã khiến bao người, trong đó có tôi, ngưỡng mộ ông. Điều này tôi cũng không nói với ông, cả những lúc nghĩ tới sự cô đơn của giới cầm bút và sự dửng dưng của thiên hạ, tôi cũng không nói với ông. Bởi tôi biết trước có nói thì ông cũng chăm chú nhìn tôi bằng ánh mắt thân thiện; rồi khi nghe xong lời thì ánh mắt ấy sẽ trở nên ngơ ngác. Tôi sẽ lại phải lắc đầu và thầm hỏi, bao giờ thì ông ra khỏi những nhân vật của ông?

       ... Phan Lương Hảo tuổi Mậu Thìn, sinh năm 1928 tháng Giêng, ngày 18 tại xã Đức Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh - vùng đất sản sinh nhiều văn nhân chí sĩ. 18 tuổi, ông vào bộ đội. Và đời binh nghiệp của ông dài trọn chín năm trường kỳ kháng chiến của dân tộc. Xuất ngũ, ông về công tác ở Bộ Văn hóa. Đến năm 1962 trở về quê hương, làm cán bộ nghiệp vụ Sở Văn hóa Nghệ Tĩnh rồi Hà Tĩnh. Tính đến nay ông trọn 42 năm hoạt động văn hóa, văn nghệ. Chức vụ cao nhất của ông là Hội viên Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, ủy viên BCH Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, Nghệ Tĩnh liên tục từ khóa I đến khóa IV. Ông đã nhận Huy chương Vì sự nghiệp văn hoá, vì sự nghiệp VHNT Việt Nam, Huân chương kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có ai đó bảo, nếu ông có cái Phó Giám đốc, Giám đốc Sở Văn hóa hay Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội văn nghệ thì sẽ không có kịch dài, kịch ngắn. Cũng có thể như vậy, cũng có thể không như vậy. Chỉ biết, người đời nhớ ông, trọng ông ở những kịch bản ông viết đã được dàn dựng, trình diễn: Nối lại đường tơ (1960), Cô thủ kho (1966), Bóng đa đầu làng (1967), Bên công sự (1975), Gói quà (1979), Chuông đồng hồ báo thức (1984), Mai Thúc Loan (1985), Khúc hát rừng thông (1986), Xôn xao rừng quế (1990), Huyền thoại núi Hồng… Ông là người chung thủy với thể loại kịch, và gặt hái nhiều thành công. Giải thưởng kịch bản văn học miền Bắc (vở Nối lại đường tơ); Huy chương Vàng và giải thưởng VHNT Nguyễn Du (vở Mai Thúc Loan và vở Khúc hát rừng thông). Loại A Liên hoan sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc (vở Xôn xao rừng quế). (Sau này, năm 2014, bộ ba tác phẩm “Cô Tám”, “Mai Thúc Loan”, “Xôn xao rừng quế” đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT.

Nhà văn Phan Trung Hiếu thay mặt gia đình nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho cố tác gia Phan Lương Hảo năm 2012. Ảnh: Tư liệu

       Phần nhiều tác phẩm của ông phản ánh sự kiện lịch sử và khắc họa hình ảnh nhân vật lịch sử. Từ cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Đường của Mai Thúc Loan nửa đầu niên hiệu Khai Nguyên, thế kỷ thứ 8, thời Ngự sử trung thừa Bùi Cầm Hổ thời Lê sơ đến cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng năm 1885 – 1895... Tác phẩm của ông “có sự hòa trộn giữa chất hoành tráng bi hùng của sử thi và chất trữ tình ngọt ngào, đằm thắm. Mai Thúc Loan có thể nói là sự khởi đầu của một công trình sân khấu hóa dân ca của một vùng đất được gìn giữ phát triển” (Nguyễn Đức Lộc). Loại hình kịch hát dân ca ông khai sinh có sức hấp dẫn mới mẻ đối với công chúng vào những thập niên 80 - 90 của thế kỷ trước cho mãi đến sau này.

       Phải miệt mài kiên nhẫn và giàu nghị lực lắm, Phan Lương Hảo mới liên tục và vững vàng trên con đường sân khấu đầy gập ghềnh, khúc khuỷu và không ít mưa bão, nóng lạnh của tính khí của khán giả và cả đạo diễn, diễn viên. Mà không chỉ trải gập ghềnh, khúc khuỷu, nóng, lạnh của cuộc đời sân khấu mà cả thăng trầm của thời cuộc. Với phẩm chất của một nghệ sỹ, Phan Lương Hảo cứ thanh thản đi về phía các nhân vật của mình: “Ví dù chút phận mỏng manh/ Cũng nhường lá rụng, cành xanh đại ngàn” (Cô Tám), đi về phía “Hạt gạo, hạt muối quê hương mặn mòi xứ sở/ Đó là nguồn sống đời ta còn nặng nợ”. (Mai Thúc Loan hay là Khúc ca rừng vải”. Những anh hùng chí sỹ, quan lại, nhà Nho, dân lành... thành nhân vật của ông, còn ông thì thành nhân vật trung tâm của nghệ thuật sân khấu Xứ Nghệ, thành thần tượng của thế hệ trẻ và của con, cháu trong dòng họ Phan. Gần như cả gia đình ông, không phải số mệnh mà là một sự chọn lựa có ý thức và cả vô thức, đi theo nghiệp văn hóa, văn nghệ. Người con gái đầu của ông là Phan Thư Hạnh,Trưởng khoa Âm nhạc Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Bình Định tác giả của 3 tập thơ đã xuất bản. Người con gái thứ hai là Phan Thư Hiền, Phó Giám đốc Sở Văn hóa,Thể thao & Du lịch, Hội viên Hội Nghệ sỹ Sân khấu, Chi hội trưởng Chi hội Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam tại Hà Tĩnh. Chị đã xuất bản 30 đầu sách (in riêng và in chung) sưu tầm, khảo cứu về di sản Văn hóa phi vật thể ở Xứ Nghệ. Người con trai là nhà văn Phan Trung Hiếu, mười lăm năm làm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, tác giả của 10 tập sách văn xuôi và thơ. Chị Kim, vợ ông làm nghề Y, gầy yếu trước tuổi. Một lần nào đó trong cuộc trà, ông trầm ngâm bảo, vì ông mải “chơi” với kịch, không giúp được việc gì cho vợ; thậm chí còn chất thêm những lo lắng lên cái gánh gia đình vốn đã nặng trên đôi vai nhỏ nhắn của bà.

       Hôm chúng tôi tiễn ông về hưu, ông ngửa hai bàn tay ra hất nhẹ trong không khí, cười hóm hỉnh. Ông cười mà chúng tôi rưng rưng. Chúng tôi thương ông, thương những người suốt đời cầm bút nghèo khó, vất vả và thương cho chính mình. Là ngửa hai bàn tay trắng vậy, chứ trong cái hòm gỗ ông mang theo, trong cái túi sách ông mang theo có bao nhiêu trang viết chi chít chữ. Thế là sang, là giàu nhất nhì thiên hạ rồi.

       Năm trước, ông mổ sỏi bàng quang. Chúng tôi ra thăm, ông bảo, tiếc cái vở “Huyền thoại núi Hồng” chưa xong. Tôi nói, mai kia về viết tiếp. Ông nói, nếu chưa chết. Ông lại cầm bút, cả khi vết mổ còn chưa kín miệng để viết xong và in được tập diễn ca “Huyền thoại núi Hồng”. Sách chưa khô mực thì lại phải lên bàn mổ. Lần này mổ ruột thừa. Chúng tôi lại ra thăm ông. Ông ngồi tựa lưng vào tường, nói, chẳng sao cả. Cắt ruột thừa như chúng ta cắt những từ thừa, câu văn thừa, đoạn văn thừa trong tác phẩm. Đau, nhưng sẽ đẹp hơn. Chúng tôi đỡ ông nằm xuống, nhưng ông phẩy tay, nằm nó quen đi, nó lười đi. Sau cơn mổ lần thứ ba, ông ngồi vào bàn và làm xong “Trăng soi nỗi oán” dày gần trăm trang chữ vi tính cỡ 12 trên giấy A4. Ông gửi tôi đọc, đọc xong tôi đến gặp ông định nói với ông về kế hoạch đưa “Trăng soi nỗi oán” lên sân khấu cho công chúng được thưởng thức. Ông nói, được thế thì hay lắm chứ in ra giấy người đọc kịch tính đầu ngón tay, phí lắm, tiếc lắm, xót lắm. Nhưng không ngờ, ông lại lên bàn mổ, cú mổ thứ tư. Lần mổ này, khiến sức lực ông cạn kiệt. Bất chợt tôi nhớ hai câu thơ như một dự báo trong vở kịch dân ca Mai Thúc Loan ông viết trên giường bệnh: “Gốc quế ven khe, hoa già đã rụng/ Dồn mật ở đài hoa lắng xuống vỏ cây”. Những ngày ông sắp đi xa, bạn bè văn nghệ xúm xít quanh ông, nhìn con người một thời bươn bã “viết rách giấy” đang thiêm thiếp, hơi thở khẽ khàng dứt quãng thoát ra khỏi khuôn ngực gầy gò đến mức không nỡ nghĩ đó là khuôn ngực mà trong đó có trái tim nhiệt huyết của nhà viết kịch Phan Lương Hảo. Ông nhìn chúng tôi, mắt nhòe nước, nói, tưởng sống thêm thời gian nữa để được xem “Trăng soi nỗi oán”. Lạ là, khi viết xong “Trăng soi nỗi oán”, tôi chợt nghĩ, đây là vở kịch cuối cùng của mình. Hóa ra cái chợt nghĩ lại thành sự thật. Người ta chống được nhiều thứ nhưng không chống được mệnh.

       Ngày hôm sau, ông bỏ cõi tạm về cõi vĩnh hằng. Lúc ấy đúng 6 giờ 40 phút ngày 21/7/2003. Hôm sau nữa là lễ tang. Người rất đông xa, gần. Khuôn mặt ai cũng đầm đìa nước. Cầu ông mong ông thanh thản. Cõi trần rộng lớn, xô bồ và cả ngổn ngang nữa, có nhiều người, rất nhiều người nhớ ông, nhớ những tác phẩm của ông.

  Đức Ban

. . . . .
Loading the player...