20-12-2022 - 13:36

Truyện ký CHUYẾN ĐÒ TRÊN SÔNG PHỐ của Tác giả Bùi Quang Thanh

Tạp chí Hồng Lĩnh số 196 tháng 12 năm 2022 xin trân trọng giới thiệu Truyện ký Chuyến đò trên sông Phố của Tác giả Bùi Quang Thanh

BÙI QUANG THANH

 

CHUYẾN ĐÒ TRÊN SÔNG PHỐ

                                                                         

                                                                                                                    Truyện ký

Mùa xuân năm 1974, sau 3 năm chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên tôi được trở ra miền Bắc để dưỡng thương và điều trị các căn bệnh mắc phải trong thời gian ở núi rừng “ma thiêng nước độc”. Vết thương xoàng không đáng quan tâm, nhưng căn bệnh sốt rét kinh niên và bệnh hen phế quản do dị ứng khí hậu bám đeo tôi, hành hạ tôi quyết liệt. Lúc hành quân vượt Trường Sơn vào chiến trường tôi nặng 52 ki lô, lúc trở lại miền Bắc chỉ còn 39 ki lô, hồng cầu 1,7 triệu trong khi người bình thường là 4,2 triệu. Mắt trắng, môi thâm, da xanh, đít beo, bụng ỏng…Tất cả đó là hình ảnh chàng lính vừa tròn 24 tuổi ốm eo bệnh tật về an dưỡng ở C15 Đoàn 70 Quân khu 4 (Hương Sơn - Hà Tĩnh)

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được tới Hương Sơn, được ngắm nhìn dòng sông Ngàn Phố trong xanh uốn lượn giữa đôi bờ tre xanh êm ả. C15 đóng quân trong xã Sơn Thịnh, một vùng đất văn vật có tiếng xưa nay. Từ chợ Choi trên quốc lộ 8A (như là một trung tâm thứ hai của Hương Sơn mà bộ đội hay gọi đùa là Lê nin grat Choi) muốn về Sơn Thịnh phải qua bằng đò. Qua đò Choi do bà Cát chèo rồi thì không thể không ghé vào quán cu đơ bên cạnh bến đò được. Mùi kẹo mật mía trộn lạc cúc và gừng được cặp hai bên hai lá bánh đa mỏng, tròn làm ngây ngất thực khách. Vào đây, các chàng trai vừa rời chiến trường khói lửa trở về hậu tuyến còn được ngắm nghía các nữ sinh viên trường Cao đẳng 10 + 3 của Hà Tĩnh đang học tập quanh vùng cũng thường ra tìm của ngọt và tìm…bộ đội. Biết bao bạn bè nhận ra nhau ở đây. Biết bao cặp trai hùng gái xinh kết thành đôi lứa bên dòng sông, bãi chợ, chuyến đò ngang hay quán nước chè chát cõng cu đơ này. Tôi hay đi đò bà Cát vì tôi ở ngay trong nhà bà ấy. Cô Dung con bà Cát là mẫu đầu tiên cho tôi chụp ảnh thiếu nữ bởi khi ở chiến trường ra, mẹ tôi đã trao cho tôi 500 đồng tiền “đi B” của tôi mà mẹ cất giữ. Mẹ bảo sau này thằng Thanh còn sống trở về thì có tiền cho nó tiếp tục đi học hay cưới vợ. Nghe lời chú ruột tôi là nhiếp ảnh gia Trí Đạt - một nhà báo kỳ cựu, để sớm trở thành phóng viên tờ báo tỉnh mà tôi mơ ước, tôi đã dùng cả số tiền ấy mua một “con” máy ảnh Gioocky 4 “đầu đen” mới khự. Đó là chiếc máy ảnh do Liên Xô sản xuất có ống kính được sơn đen, chiếc máy ảnh đầu tiên của tôi và tôi cũng là chủ sở hữu đầu tiên của nó. Ông chú tôi dạy cách chụp sơ bộ rồi cho tôi một lô phim, giấy ảnh; mấy chai thuốc hiện hình, thuốc hãm hình và một bộ tài liệu của lớp phóng viên Thông tấn xã Việt Nam với một mệnh lệnh: học thuộc lý thuyết, thành thạo chụp ảnh, chủ động được ánh sáng và in rửa phim ảnh thành thạo. Tôi hăm hở vâng lời, háo hức "ra quân" tìm đối tượng săn ảnh. Khá nhiều nữ sinh trường sư phạm mầm non bên Sơn Mỹ, khá nhiều nữ sinh trường Cao đẳng 10 +3 đã lọt vào ống kính của tôi. Nhiều ông già, bà lão và trẻ thơ cũng thành mục tiêu tôi săn tìm, thử nghiệm. Bây giờ về lạị bàn thờ các cụ ông cụ bà ở miền ven sông Ngàn Phố Hương Sơn chắc chắn gặp di ảnh các cụ do tôi chụp những năm 1974.

Thời gian điều dưỡng ở Đoàn 70 rất thoải mái, trừ khi ốm đau nằm nhà hoặc đi viện, còn khoẻ lên là tôi và thằng bạn học hồi cấp 1, cấp 2 Chu Thanh Tùng qua lại trên sông vừa để ngắm cảnh, ngắm người, chụp ảnh và làm thơ. Một chiều nọ, tôi cũng trên con đò của bà Cát đang từ Choi qua Sơn Thịnh thì tôi chợt sững người: Thầy Hóa? Tôi nhìn kỹ thầy mấy lần rồi bối rối: “Thầy…phải thầy Hóa không ạ?” Người đàn ông ấy đang đứng trên đò, tay giữ ghi đông xe đạp, đầu đội cái mũ “Xanh ga po” giật mình nhìn tôi. Ông nhìn rồi lắc đầu, rồi lại nhìn tôi từ đầu xuống chân như tự vấn là ai, quen hay lạ…Trong ánh mắt ấy, tôi nhận ra đúng là thầy Hóa! Tôi tiến đến chìa hai bàn tay ra:  “Em đây! Bùi Quang Thanh ở Giếng Vàng đây!” Thầy tôi òa lên một tiếng reo, rồi nhìn kỹ tôi xanh xao ốm yếu, nhìn bộ quân phục vải tô châu còn mới, thầy biết ngay tôi vừa từ chiến trường ra…

… Thầy Hóa chủ nhiệm lớp 3 và lớp 4 của tôi ở trường cấp 1 Cẩm Tiến. Xã trung tâm của huyện rất đông dân nhưng chỉ có một trường cấp một nên rất nhiều lớp cùng khóa, học mấy năm trời mà chẳng nhớ hết tên bạn bè trang lứa. Tôi vào loại thấp bé nhẹ cân trong lớp, học cũng bình thường, tính nhút nhát ít khi xung phong lên làm bài, phát biểu nên những tháng đầu về dạy thầy cũng không mấy quan tâm. Thầy ở trọ sát cổng trường, nhà bà Lơ hàng xóm với nhà tôi. Nhà bà Lơ rất nghèo, ông chồng không có ruộng cày nên ông lên vùng Đá Bạc cách làng tôi mấy giờ đi bộ để lập trại khai hoang trồng khoai trồng sắn và chăn trâu bò thuê cho dân trong vùng.

Thầy Hóa ăn cơm bà Lơ nấu, uống nước chè bà Lơ ủ và cũng cuốc đất trồng rau, trồng khoai sắn cùng gia đình bà Lơ. Quen thân là vậy nhưng trên lớp thầy rất nghiêm khắc chúng tôi, nhất là thằng Lê con bà. Thằng Lê là đứa lười học, ăn mặc xộc xệch và đặc biệt cái mũi luôn có hai vệt “dây thừng” màu xanh lơ thập thò trên môi. Thỉnh thoảng cái “dây thừng” dài quá, anh chàng lại dùng ống tay áo nu non quẹt ngang một phát, hai cánh tay áo đen sờn bóng nhoáng vì nước mũi. Tôi đã nhiều lần nghe thầy quát thằng Lê vì việc đó và có lẽ thế mà Lê vừa sợ vừa không thích thầy.Tôi cũng ngại gặp thầy mỗi khi sang nhà bà Liên tìm Lê để chơi, vì sợ…

Kỳ hai năm học lớp Ba, tôi bị một trận ốm thập tử nhất sinh. Số là buổi trưa ấy, thằng Lê sang rủ tôi đi gánh nước giếng Vàng. Làng tôi có một cái giếng duy nhất có cái tên kêu như vàng bạc, nước xanh như ngọc và rất sạch sẽ, uống mát vô cùng. Ai cũng nói nước giếng Vàng uống thơm và ngọt. Chúng tôi cũng tin vậy và thản nhiên, thích thú uống thả ga mỗi lần lên tắm giặt hay gánh về nhà dự trữ đề dùng. Cả một vùng làng mạc từ dưới chợ Hội, ngoài xóm Hội Lâm, Hội Sơn hay tận xóm Thị Thành, xóm Làng, cả bên xã Cẩm Quan cách con sông Hội cũng đi đò sang gánh nước giếng Vàng về nấu chè xanh.

Nhà tôi không dùng nước giếng Vàng bởi trong vườn đã có một cái giếng ghép đá ông cố nội tôi xây tự bao giờ. Nước giếng nhà tôi cũng không thua gì nước giếng Vàng, trong veo ngọt mát nhưng không hiểu sao hôm ấy tôi lại hăng hái quảy đôi nồi “năm” bằng đồng đi với thằng Lê. Trưa tháng ba nắng lắm, tôi và Lê múc nước đầy gánh, bẻ mấy cành lá nổ rửa sạch thả vào thùng để nước khỏi sóng ra ngoài khi gánh chạy rồi lấy gàu múc nước té vào nhau đến ướt sũng. Chợt có tiếng trống đám ma vọng lại. Chúng tôi nhìn ra phía cánh đồng Mặt Bù thì thấy một đám tang dài ngoằng đang tiến về cổng chùa rú Hội, cờ ma lất phất, chiếng trống, thanh la loảng xoàng xập xình. Thằng Lé bảo tôi “Đi coi đám cố Xá đi”, nó chạy ngay theo con đường cát trắng lên phía đông rú Hội, nơi có bãi tha ma lúc đó vẫn chôn cất người chết của cả làng cả xã chúng tôi. Tôi cũng hăm hở lao theo. Bám xem cuộc chôn cất cố Xá ở xóm Hội Sơn xong trời đã ngả chiều. Tôi gánh nước về đến nhà thì mệt và nóng quá liền lao ra giếng nhà để tắm. Một lát sau thấy người run bần bật, tôi trùm chăn ra ngồi giữa đám tấp sim anh tôi vừa bứt trên đồi Cẩm Quan về phơi làm củi và không quên ôm cuốn Thủy Hử dày cộm ngồi vừa run vừa đọc. Tối đó tôi lên cơn mê sảng, nói lung tung, người nóng như lửa và bị…ngây. Quê tôi gọi người mất trí hoặc điên là “ngây”. Tôi mất trí nhớ về thực tại của mình, không hiểu được mình đang làm gì, ở đâu, tuy nhiên tất cả người quen tôi đều biết và đặc biệt không bao giờ quên được nữa những hành vi, lời nói, hoàn cảnh của mình suốt gần một tháng trời bị sốt, bị “ngây” ấy, cho đến cả bây giờ hơn 60 năm rồi cũng vẫn nhớ. Người ta bảo tôi bị ma ám, khuyên mẹ tôi đi cúng. Mẹ tôi thuộc thành phần phụ nữ cấp tiến, không tin có ma. Khi anh tôi và chú Ngọ con ông Đỏ (chú họ của tôi, đã hy sinh trong cuộc chiến chống Mỹ ở mặt trận Lào) bỏ tôi vô bồ gánh lên Trạm xá xã ở làng Cẩm Bào thì mẹ tôi ôm áo quần đi theo trong đêm tối. Lúc đó mẹ tôi đang mang thai thằng Hà, em út của tôi.

Sau những cố gắng của chú Lung trạm trưởng, bác Tý y tá, o Diệu hộ lý nhưng không thuyên giảm nhiệt độ, bụng tôi cứ chướng lên, nói năng linh tinh, khi cười khi khóc đúng như…ma ám, tôi được anh tôi và chú Ngọ bỏ vào bồ gánh lên Bệnh xá huyện. Những ngày này ai cũng nghĩ là tôi sẽ chết vì người đã như bộ xương, da xanh tái, mắt thao láo, lưỡi thâm đen. Dì Trí - chị gái mẹ tôi cả mấy tuần cũng theo chăm tôi và anh Lê Văn Thi, con của dì bị cảm hàn nặng (anh Thi tôi hơn một năm sau tốt nghiệp cấp 2 thì đi bộ đội vào chiến trường B và hy sinh ở Bình Định) lo lắng bảo mẹ tôi: “Lưỡi đã thâm rồi thì không được mấy ngày nữa mô. Dì gọi dượng về đi”. Mẹ tôi nước mắt lưng tròng, bảo anh trai tôi xuống tìm bác Bùi Quang Chức đang làm Chủ tịch huyện nhờ bác gọi điện ra đơn vị cho bố tôi biết để kịp về gặp tôi. Lúc này bố tôi đang đóng quân ở Tây Bắc. Ai cũng tuyệt vọng vì căn bệnh quái ác của tôi. Duy chỉ tôi, nói chuyện, tiếp khách tới thăm là cứ leo lẻo.

Một hôm thầy Hóa dẫn mấy bạn trong lớp đến Bệnh xá thăm tôi. Lúc ấy là buổi trưa, tôi đang ngồi nói lảm nhảm trên giường, thầy bước vào phòng chào mẹ tôi và ôm chầm lấy tôi, thầy khóc. Hình như đây là lần thứ hai tôi thấy thầy khóc, thấy những giọt nước mắt lăn ra từ cặp mắt vốn nghiêm nghị của thầy. Hôm ấy thầy ôm lấy tôi, vuốt ve mái tóc quăn xù của tôi mà nói những lời lạ lẫm: Cố gắng khỏe để trở về học tiếp nhé! Thầy đã cho mấy bạn nữ chữ đẹp nhất chép vở giúp em rồi…”

Như có phép thần kỳ, khi các y sĩ, y tá của Bệnh xá Cẩm Xuyên cố gắng chuyền nước cầm cự cho tôi, hình như chỉ mong bố tôi kịp về… Hóa ra chẳng phải ma quỷ chi làm mà do tôi trúng thương hàn. Do hôm ấy tôi giang nắng cả trưa xem đám ma, gánh nước về nhà mệt, mồ hôi ra nhiều là tắm ngay, nước giếng mát lạnh nữa nên tôi bị thương hàn. Đó là mùa xuân năm 1962.

Tôi trở lại trường trong sự mừng vui của các bạn cùng lớp. Thầy Hóa tỏ ra hết sức chăm sóc tôi, dặn các bạn học giỏi kèm tôi học các bài đã bị bỏ qua trong thời gian đau ốm. Khi đứng trên bục giảng, thầy thường dành ánh mắt cho tôi, một câu thầy hỏi cả lớp nhưng thấy tôi tỏ ra hăng hái là thầy chỉ tôi phát biểu. Tôi tự tin dần lên, chăm chú học bài và không ngại “xung phong” bàn luận như trước nữa.

Học thầy Hóa môn quốc văn, chúng tôi rất thích tác phong giảng dạy của thầy. Tay chân vung lên bày tỏ cảm xúc, ánh mắt vời vợi say mê với bài giảng, thầy như thả hồn vào những bài văn tả cảnh, những câu chuyện về các nhân vật tiêu biểu trong trang sách ấu thơ chúng tôi học. Có bữa đang bay bổng cùng tác phẩm, đột nhiên thầy dừng lại, bao quát cả lớp một “vòng” mắt rồi tay cầm phấn, thầy hỏi: “Thế các bạn có biết vì sao anh Trần Đại Nghĩa làm được như vậy không?” (nghĩa là Anh hùng Trần Đại Nghĩa đã chế ra các loại vũ khí cho bộ đội ta đánh Pháp trong bài tập đọc lớp ba). Thấy dễ ợt, tôi xung phong và được thầy cho phép. “Thưa thầy, vì anh ấy thông minh và chịu khó ạ” “Chưa trúng! Em nào nữa?” Người thì bảo vì anh ấy yêu nước, đứa thì vì anh ấy quyết tâm, đứa lại bảo anh ấy vâng lời Bác Hồ, đứa thì bảo vì anh ấy căm thù giặc Pháp…Cuối cùng thầy chỉ cô trò học giỏi nhất lớp, chăm chỉ nhất lớp, đó là Bùi Thị Kim Hoa. Kim Hoa đứng dậy tự tin: “Thưa thầy, sở dĩ anh Trần Đại Nghĩa làm được những việc đó là vì anh ấy đã dám nghĩ dám làm”. Đang ngồi ở ghế, thầy Hóa tự dưng bật dậy như cái lò xo bị nén: “Đúng quá! Dám nghĩ dám làm! Thầy cho em 10 điểm” Chao ơi, cái bật lò xo và ánh mắt vui sướng của người thầy ấy cứ ám vào tôi mãi mãi mỗi khi nhớ về thầy, nhớ về tuổi thơ đi học.

Tôi bắt đầu thích học, đặc biệt những môn tập đọc, lịch sử và ham đọc sách. Chính sự ham đọc sách thái quá làm tôi bị học lệch một số môn. Thầy vẫn thường khích tôi: Em hơn các bạn một số môn về xã hội nhưng lại kém nhiều bạn về tự nhiên. Thầy nghĩ chỉ tại em chưa chú trọng các môn tự nhiên mới thua kém họ. Em thử cố gắng xem sao? Và tôi cố gắng thật. Năm lớp 4 (cuối cấp) tôi đạt học sinh tiên tiến, được lên thẳng cấp hai và trong học bạ cuối cấp Một, lời hạ bút cuối cùng của thầy làm tôi phấn chấn: “… có triển vọng về quốc văn!”. Tôi mang tinh thần "có triển vọng..." ấy lên cấp hai trường huyện với một tâm hồn phơi phới nhưng nỗi buồn phải xa thầy Hóa làm tôi hẫng hụt một thời gian. Thầy đã chuyển về dạy ở quê nhà Hương Sơn để tiện chăm sóc mẹ già. Hương Sơn nghe đâu xa lắm, mãi sát biên giới Việt- Lào, sát chân dãy núi Giăng Màn mờ tít phía tây…

Hai thầy trò chúng tôi ngồi bên nhau trên con đò chòng chành vượt sông sang ngang, giữa những cặp mắt tò mò và thú vị của những anh bộ đội, những nữ sinh viên, của các bà bán chè bán mít sang chung chuyến đò ấy.

Gặp lại thầy sau mười một năm xa

Trên một chuyến đò qua sông Phố

Nước trong xanh phủ ráng chiều chín đỏ

Thầy ngỡ ngàng bắt tay chú thương binh
 

Phải em không còn dáng dấp cậu học sinh

Những năm xưa ngồi nghe thầy lên lớp

Phải màu da chiến trường đổi khác

Mà phút đầu thầy chẳng nhận ra em?
 

Mười một năm rồi em vẫn nhớ như in

Buổi chia tay lắc vai thầy dặn:

Bớt nghịch nhé, tự nhiên cần cố gắng

Thầy tin rằng em sẽ giỏi quốc văn!
 

Em không thành sinh viên khoa văn

Bỏ bút ra em là người chiến sĩ

Trăm vạn nẻo trên con đường đánh Mỹ

Nhớ bóng thầy khi qua mỗi dòng sông…

Đó là cảm xúc tôi đã viết từ tháng 3/1974 và không viết thêm được nữa. Cho đến hôm nay, ngày 20/11/2022 – sau 48 năm, tôi nhớ lại thầy tôi…

                                                                                                     B.Q.T

Xuôi dòng Ngàn Phố (ảnh Đậu Bình)

. . . . .
Loading the player...