Nhà văn Trần Thị Hảo sinh năm 1957 quê ở Lâm Phước Thọ, khu phố Bắc Hà (nay thuộc phường Thành Sen, Hà Tĩnh) là Tiến sỹ - Nhà giáo từng giảng dạy khoa tiếng Pháp ở Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, hiện nay là cán bộ Nghiên cứu Văn học Pháp tại Trường Đại học Sorbonne Paris IV, đồng thời tham gia giảng dạy Văn học Việt Nam cận hiện đại. Các sáng tác chính của bà đồng thời bằng cả hai ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Pháp. Trong số đó có không ít tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy tại các chương trình giáo dục ngay chính nước Pháp và các nước Pháp ngữ. Năm 2018, bà vinh dự được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Hiệp sĩ. Cuốn tiểu thuyết “Bà Hoàng cuối cùng của nước Annam” (2014) là một trong mười tác phẩm cuối cùng được chọn cho Giải Văn học châu Á năm 2015. Nhà văn Trần Thị Hảo là cựu học sinh của trường PTTH Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), chính từ mái trường quê hương này bà đã trở thành Nhà giáo – Nhà văn. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Trường Phan Đình Phùng, Trần Thị Hảo đã xuất bản tiểu thuyết “Trước bình minh” (Nxb Hội Nhà văn, 2025) để nhớ về một miền ký ức không thể nào quên của mình và bạn bè trang lứa. Tạp chí Hồng Lĩnh xin trân trọng giới thiệu trích đoạn trong tác phẩm “Trước bình minh”.
Chiến tranh
(Trích tiểu thuyết TRƯỚC BÌNH MINH)
TRẦN THỊ HẢO
Đêm đó, tôi chìm vào giấc ngủ say, đắm mình trong một giấc mơ, tôi thấy mình đang chơi trò trốn tìm dưới ánh trăng với bạn bè trong sân hợp tác xã nông nghiệp. Có lúc tôi trốn sau một cột rơm lớn, có lúc tôi leo lên cây cổ thụ, vui mừng vì không bị phát hiện và cười thầm nghĩ mình đã thắng.
... Bỗng đột nhiên, tiếng còi báo động đánh thức tôi. Một chiếc máy bay trinh sát đang lượn quanh khu vực, tìm kiếm mục tiêu. Chỉ trong chớp mắt, bầu trời sáng rực lên như báo hiệu ngày tận thế.
... Thời gian thấm thoát trôi. Gần hai mươi năm sau khi tốt nghiệp đại học, tôi có dịp gặp lại những người bạn cũ, những người đã cùng tôi sống và học tập suốt bốn năm đại học. Mỗi người đều có công việc, gia đình và cuộc sống riêng. Cuộc sống của các bạn khác xa so với thời kinh tế bao cấp mà chúng tôi đã trải qua.
Trong số họ, ngoài Mỹ Linh, người từ Mỹ trở về thăm quê hương cùng gia đình và Hải Yến, người vừa hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh ở Pháp, tôi là người trở về từ nơi xa nhất.
Khi nhìn thấy bạn bè, nước mắt tự nhiên rơi xuống hai gò má. Tôi chợt nhớ lại... "Con không thể lấy người đàn ông này. Con hiểu không?" Cha tôi đã nhắc đi nhắc lại như vậy. "Con không thể tiếp tục câu chuyện này. Dừng lại đi, Hà An!" dì tôi đã nói với tôi.
Nay bên tai tôi lại văng vẳng những lời nói đó. Tôi không thể hiểu vì sao, vào thời điểm đó, tôi lại yếu đuối đến thế, nhu nhược đến thế. Tôi đã bỏ tất cả để tìm một con đường khác. Liệu tôi đã đúng hay sai? Tôi không còn biết nữa...
… Vào thời điểm tôi đến vùng kinh tế mới của đất nước, trời mưa không ngớt.
Hôm đó, một làn sương mùa hè dày đặc, từ từ vờn quanh, lơ lửng trong không khí như một đám mây bụi trên chiến trường. Không một chiếc lá nào lay động. Rồi một cơn mưa nhẹ và mát mẻ bắt đầu rơi. Mưa không ngớt gần như suốt cả ngày, khó khăn lắm mới xuyên qua được làn sương dày đặc và quét ngang mặt đất. Gió thổi. Khu rừng cà phê và chè trở nên tối tăm. Cánh đồng lúa xanh mướt, trải dài vô tận về phía xa xa. Những chú chim én bay xao xác trên bầu trời trước cơn mưa, nay đã lẩn trốn sâu trong rừng. Bao phủ bởi làn hơi ẩm dày đặc chỉ còn nhìn thấy những ngọn cây vươn lên, vùng núi này tựa như bị mắc kẹt trong một sự im lặng ngột ngạt. Những con đường dài, rợp bóng thông già, đẹp nhưng rất tối, có cảm tưởng như nơi này bao phủ một nét u ám.
Bất chợt, mưa ngừng rơi. Một vài tia nắng nhẹ le lói. Ngày mới vừa bắt đầu ló dạng trên bầu trời, mang theo sắc ánh sáng nhợt nhạt từ phương Đông. Một thế giới vô tận của những con ong, bướm, chuồn chuồn, chim… bắt đầu nhộn nhịp. Những cánh bướm lười biếng bay qua bay lại, rồi đậu trên những đoá hoa quen thuộc, mở cánh chuyển động nhẹ nhàng, quyến rũ như chiếc quạt. Những chú chim cũng nhẹ nhàng bay lên…
Sau khi xuống tàu, tôi bước đi dưới mưa. Tôi cảm thấy hơi lạc lõng. Từ thủ đô đến vùng đất xa xôi này, mọi thứ đều xa lạ với tôi, tất cả đều thay đổi hoàn toàn. Tôi tìm đường đến trường cấp ba Nguyễn Viết Xuân, nơi tôi sẽ dạy tiếng Pháp. Tại một ngã ba trong làng, khi đang do dự tìm đường, tôi gặp một người nông dân khá trẻ. Anh chỉ đường cho tôi. Cuối cùng, tôi cũng tìm thấy trường học.

Minh họa: HÙNG DŨNG
Trường hiện ra trước mắt tôi. Tất cả các lớp học đều là những ngôi nhà đơn sơ lợp mái tranh hoặc rạ. Bàn ghế và bảng đen đều rất cũ kĩ. Học sinh thật nghèo, đa số đi học mà không có dép.
Các thầy cô giáo cũng không khá giả gì hơn. Ký túc xá cũng được lợp mái tranh. Chỗ ở của tôi chỉ sáu mét vuông, bên trong không có gì cả. Không khí nóng ẩm bao trùm…
Chúng tôi sống trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Hai thầy giáo cùng dùng chung một chiếc xe đạp. Hai cô giáo chỉ có một chiếc quần lụa. Mỗi người đều mặc chiếc quần đó, thay nhau khi lên lớp...
Hai mươi năm đã trôi qua. Với chính sách Đổi mới, Việt Nam thay đổi rất nhiều. Kinh tế phát triển, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt rõ rệt giữa cuộc sống của chúng tôi – những trí thức ở vùng kinh tế mới và cuộc sống của trí thức ở các thành phố lớn, giữa đời sống của nông dân và cư dân thành thị.
Như hầu hết người Việt Nam cùng thế hệ, cha tôi đã tham gia tích cực vào hai cuộc kháng chiến lớn chống lại chủ nghĩa thực dân và đế quốc với niềm lạc quan, để giành lấy độc lập và thống nhất cho đất nước. Giữa sự sống và cái chết, cha không tính toán, tấm lòng luôn vô tư, trong sáng.
Không chỉ nghiêm túc, cầu toàn trong công việc và cách ứng xử, cha tôi còn rất nghiêm khắc, thậm chí là khắt khe với tôi. Để chấp hành chính sách của đất nước những năm 70, cha đã phản đối tình yêu của tôi – một mối tình trong sáng và ngây thơ. Cha muốn tôi cư xử như một cô gái được giáo dục dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Cha mong tôi tôn trọng chế độ chuyên chính vô sản, thứ đã từng thu hút giới trẻ và khiến họ dâng hiến cả cuộc đời mà không hối tiếc. Chính cha đã sống một cuộc đời gương mẫu, liêm chính, vô tư và khắc khổ.
Khi gặp lại bạn bè, nhìn vào sự khác biệt trong hoàn cảnh của họ, cách họ tiến thân trong cuộc sống riêng cũng như trong nghề nghiệp, tôi nghĩ nhiều về cha tôi, Người đã không còn nữa. Là một cán bộ cấp cao, một lão thành cách mạng, cha tôi không chỉ là một trong những người có thâm niên tuổi Đảng nhiều nhất, mà còn là người tham gia trực tiếp ở nhiều mặt trận, đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau.
Sau khi gặp lại các bạn, tôi đến thăm mộ cha. Tôi đặt lên mộ một chùm hoa ly trắng, thắp vài nén nhang. Nghĩ về cha, về cuộc đời của cha, tôi cảm thấy buồn thương vô hạn. Những giọt nước mắt cứ tự rơi xuống, tôi không thể ngừng được.
Ngoài nghĩa trang, người người, xe buýt, ô tô bên cạnh những chiếc xe máy, xe đạp… vẫn đi lại bình thường. Những tia nắng chiếu lên những tòa nhà cao chọc trời mới xây…
Một mình, tôi khẽ gọi tên cha tôi, tên mẹ tôi và tên người yêu đầu đời của tôi. Đột nhiên, cùng với họ, như một xô nước bị ném xuống giếng, tuổi thơ tôi, quá khứ của tôi, cuộc đời tôi trỗi dậy từ dòng ký ức…
...
Tôi được sinh ra ở một thành phố, thuộc một trong những tỉnh miền Trung Việt Nam. Dải đất này được biển ôm trọn một bên, còn bên kia dựa lưng vào dãy Trường Sơn vươn dài. Không được thiên nhiên ưu đãi, nơi đây thường xuyên phải hứng chịu những cơn bão dữ dội. Là vùng đất nghèo khó và dân cư đông đúc, Hà Tĩnh là một trong những tỉnh khó khăn nhất đất nước. Tại trung tâm thành phố, có ngôi trường cấp ba Phan Đình Phùng truyền thống (nay là trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng), một trường nổi tiếng về chất lượng giảng dạy và học tập, nơi có những người từng học và sau đã trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, từ trung ương đến địa phương.
....
Và tôi đã yêu...Nhưng, cha tôi nói:
- Con hãy suy nghĩ kỹ! Bây giờ hãy quên nỗi buồn của con đi! Con có cơ hội trưởng thành trong một xã hội có nhiều biến động; biết bao nhiêu người đã hy sinh xương máu để thế hệ trẻ như con có thể sống trong hòa bình, tiếp tục học tập ở trường đại học! Hà An, qua tất cả những điều cha vừa nói, hy vọng con sẽ hiểu. Đừng nghĩ rằng con chỉ có một tình yêu duy nhất! Con không thể hành động mà không suy nghĩ...
Hy vọng cuối cùng của tôi đã tan biến. Tôi cảm thấy như màn đêm đã buông xuống trước mắt tôi, những đám mây màu chì nặng nề chắn ngang chân trời, tất cả đều chìm trong một màu u ám. Tôi hoàn toàn chơi vơi. Tôi không biết phải làm gì nữa. Mọi thứ xung quanh tôi trở nên mờ mịt, rối rắm và khó hiểu. Những lời cha tôi nói đã làm tôi chao đảo hơn tôi tưởng. Cha như đã cắt đứt đôi cánh của tôi.
Việc vâng lời cha là một trong ba bổn phận của một người con gái theo đạo lý Nho giáo. Vào thời điểm đó, Việt Nam vừa trải qua chiến tranh, dưới sự ép buộc của cha, của dì tôi, của thầy giáo trưởng khoa, của những người xung quanh, tôi đã tin rằng đó là bổn phận của mình…
Nghĩ đến điều đó, trái tim tôi đau đớn…
Tôi lại bắt đầu khóc: tôi lật lại những kỷ niệm thời thơ ấu; tôi lại khóc thương cho mẹ, vì tất cả nỗi đau đều liên kết với nhau và nỗi đau cuối cùng lại đánh thức tất cả những nỗi đau khác! Đắm chìm trong những suy tư buồn bã, tôi đứng bất động khá lâu, và trong trạng thái suy sụp theo sau những nỗi đau lớn, tôi cảm thấy như mình đã mất đi khả năng suy nghĩ và cảm nhận; đột nhiên, chiếc túi của tôi rơi xuống và mọi thứ bên trong văng ra; tôi nhìn thấy bức ảnh mà Xavier đã tặng tôi trong lần gặp cuối. Nhìn vào bức ảnh, tôi chợt quên đi một lúc những người thân yêu của mình. Chỉ riêng hình ảnh ấy đã treo trong trái tim tôi nỗi đau đớn nhất! Không, tôi không còn cảm thấy nỗi đau mà những lời của cha tôi để lại; tôi nhận thức được toàn bộ sự mất mát mà tôi đã phải gánh chịu; hình ảnh của anh xé nát trái tim tôi.
Chìm đắm trong những suy nghĩ đau đớn, tôi nhớ lại những giấc mơ thời niên thiếu, tuổi thanh xuân, khi tôi còn sống trong vòng tay bạn bè. Ngập tràn trong những giấc mơ ấy, tôi đã trao mình cho những ảo tưởng ngây ngô về tình yêu, những điều làm vơi đi nỗi buồn của tôi. Tôi cảm thấy mình như đang tàn tạ và chết dần; những cơn đập mạnh của trái tim khiến tôi có lúc tin rằng mình đã chạm đến phần cuối cuộc đời...
T.T.H