Cách mạng tháng Tám 1945 là biểu hiện mẫu mực của khoa học và nghệ thuật chính trị dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, trong đó nổi bật là nghệ thuật chủ động chuẩn bị lực lượng, dự báo thời cơ, thúc đẩy thời cơ và nắm bắt thời cơ một cách quyết đoán, hiệu quả.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì có 3 nhân tố chủ yếu để hợp thành thời cơ cách mạng đó là: Giai cấp thống trị đã suy yếu, khủng hoảng đến mức không thể tiếp tục thống trị bằng những phương thức cũ được nữa. Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ cực, bị bần cùng không thể chịu đựng được nữa, mâu thuẫn đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới hành động giải phóng. Tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước có tư tưởng dân chủ tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch sử, ngã về phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía cách mạng. Đội tiên phong của cách mạng, tức Đảng lãnh đạo đã sẵn sàng.
Đảng ta, đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức: Thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan đã đến độ chín muồi. Thời cơ không tự đến, một phần là do ta chuẩn bị nó, thúc đẩy nó.
Từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra sức xây dựng lực lượng về các mặt, mở rộng mặt trận, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, lực lượng cách mạng ở thành phố,… để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Đồng thời, Đảng ta hết sức chăm chú theo dõi sự phát triển của tình hình, diễn biến của chiến tranh thế giới lần thứ hai, dự đoán các khả năng, phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để có những quyết sách đúng đắn kịp thời.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra. Tháng 5/1941, dựa trên những dự đoán ban đầu của tình hình cách mạng trong nước và thế giới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 đã nhận định: Nếu như Liên Xô thắng trận và Trung Quốc phản công phát xít Nhật thì đây sẽ là những điều kiện thuận lợi để Đảng ta xây dựng lực lượng tiến tới khởi nghĩa rộng lớn. Đồng thời, Đảng cũng chỉ ra những điều kiện tạo nên thời cơ chín muồi. Đó là: Ta xây dựng được mặt trận cứu quốc thống nhất trên toàn quốc. Nhân dân không thể sống dưới sự áp bức của Pháp - Nhật được nữa. Phe thống trị ở Đông Dương bước vào khủng hoảng. Và tình hình thế giới có chuyển biến thuận lợi cho ta như Trung Quốc thắng Nhật, quân Đồng Minh thắng trận…
Quần chúng cách mạng và tự vệ chiến đấu Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ), ngày 19-8-1945 (1)
Từ nǎm 1942, Đảng ta nhận định rằng: Liên Xô chiến thắng phát xít Đức - Nhật là điều có khả năng nhất. Tình thế sẽ diễn biến thuận lợi cho ta. Vì vậy, Đảng xác định chuẩn bị khởi nghĩa.
Tháng 9/1944, Đảng đã dự kiến rằng, mâu thuẫn Nhật - Pháp sẽ dẫn tới Nhật đảo chính lật đổ Pháp và chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc chuẩn bị khởi nghĩa.
Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám 1945 xuất hiện vào ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm Đông Dương. Pháp nhanh chóng đầu hàng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 9/3/1945 đến ngày 10/3/1945 đã đánh giá tình hình, ra chỉ thị: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Nội dung chủ yếu của bản Chỉ thị: Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật. Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, Đảng ta xác định, sự kiện Nhật đảo chính Pháp chỉ làm cho tình hình chính trị tại Đông Dương lâm vào khủng hoảng chứ thời cơ cho khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi.
Thời cơ Cách mạng tháng Tám 1945 chín muồi khi phe phát xít thua trận, phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Đồng thời, ta đã xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu. Nhân dân ta không thể chịu đựng bị áp bức được nữa. Quyết tâm chiến đấu để giành độc lập tự do cho dân tộc, không khí cách mạng sôi sục. Bên cạnh đó, cách mạng phải chạy đua gấp rút với quân Anh, Mỹ trước khi chúng vào Đông Dương giải giáp quân phát xít, mượn danh nghĩa pháp lý để chiếm nước ta. Trong tình hình đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13/8 đến ngày 15/8/1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang). Sau khi phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hồ Chí Minh đã kiên quyết khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập” [1]. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trể. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”.
Hưởng ứng sự lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ (từ ngày 14/8 đến ngày 28/8/1945), Hồ Chí Minh đã đứng ra dẫn dắt toàn thể dân tộc Việt Nam tranh thủ từng phút giây, chạy đua với thời gian, tiến hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thành công. Cách mạng tháng Tám 1945 đã thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chế độ thuộc địa và chế độ quân chủ từng ngự trị trên đất nước ta bị lật nhào. Tại Hà Tĩnh, từ ngày 16/8/1945, Nhân dân huyện Can Lộc, dưới sự lãnh đạo của lực lượng tự vệ đã chiếm huyện lỵ, lập chính quyền Nhân dân. Ngày 18/8/1945, quần chúng Nhân dân và lực lượng vũ trang tiến về thị xã, chiếm các công sở, buộc lính bảo an giao nộp vũ khí, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt ngay trong cuộc mít tinh của quần chúng. Cùng với Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Nam, Hà Tĩnh là một trong bốn địa phương giành chính quyền về tay Nhân dân sớm nhất trong cả nước. Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn, sáng tạo, trong việc dự đoán thời cơ, nhận định thời cơ, thúc đẩy thời cơ, nắm bắt thời, khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng ta. Nhờ sự nắm bắt thời cơ “ngàn năm có một”, Cách mạng tháng Tám 1945 giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc... Cách mạng tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc” [2].
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công thể hiện công lao của Đảng ta đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dự báo thời cơ, thúc đẩy thời cơ, nắm bắt thời cơ. Đảng ta đã lãnh đạo, chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bền bỉ và nhạy bén nắm bắt thời cơ mà thực chất là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan; giữa nội lực và ngoại lực; giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chứ không phải là một sự “ăn may” như một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đưa ra. Đây là cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, do đó, thành công của cách mạng là triệt để, là “đến nơi” như Hồ Chí Minh khẳng định. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định được. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan về cuộc cách mạng này đều không có giá trị.
Bài học về vấn đề nắm bắt thời cơ còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc nắm bắt thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để đưa đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên cơ sở nhận thức sâu sắc, đầy đủ về thời cơ và nguy cơ trong thế giới đương đại, Đảng, Nhà nước đã chủ động xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nhờ vậy, từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [3].
Chú thích:
[1] Võ Nguyên Giáp (2001), Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 196.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7 (2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, trang 25 - 26.
[3] Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về các văn kiện trình đại hội XIII của Đảng (ngày 26/01/2021).
Nguyễn Nga