10-11-2025 - 00:51

Giáo sư - Viện sĩ Hồ Tôn Trinh, từ cán bộ tuyên truyền văn nghệ đến nhà lý luận văn học

Tạp chí Hồng Lĩnh số 230 tháng 10/2025 trân trọng giới thiệu bài viết Giáo sư - Viện sĩ Hồ Tôn Trinh, từ cán bộ tuyên truyền văn nghệ đến nhà lý luận văn học của Thạc sỹ Nguyễn Trí Sơn - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hà Tĩnh

Giáo sư - Viện sĩ Hồ Tôn Trinh, (bút danh Hoàng Trinh) sinh ngày 28/9/1920, tại Viêng Chăn, Lào, mất ngày 19/3/2011 tại Hà Nội; quê phường Đại Nài, thành phố Hà Tĩnh (nay là phường Thành Sen, tỉnh Hà Tĩnh). Gia đình ông thuộc dòng họ Hồ Văn, đã gây dựng cơ nghiệp trên vùng đất làng Đại Nài huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh từ khoảng 600 năm nay. Từ "Tôn" tên đệm của ông vốn được ghép từ họ tên của người mẹ (Tôn nữ), một "công tôn nữ" trong hoàng tộc nhà Nguyễn. Lúc nhỏ, ông được gia đình gửi ra Hà Nội ăn học. Khi trưởng thành, ông trở về quê hương sinh sống và lập gia đình với người vợ đồng hương của mình là nhà giáo Nguyễn Thị Trinh. Ông bà có bốn người con, hiện sinh sống và lập nghiệp tại Hà Nội.

Sinh sống trong một vùng quê có truyền thống cách mạng và văn hoá, ông đã giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, trong các phong trào phản đế, phản phong tại quê nhà, ông từng tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh lỵ Hà Tĩnh... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông công tác tại Uỷ ban hành chính huyện Thạch Hà rồi được cử làm Phó Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tĩnh, sau đó là Trưởng ty Tuyên truyền Văn nghệ tỉnh Hà Tĩnh. Những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã thử thách và tôi luyện con người ông, được hoà mình và gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng của nhân dân và bộ đội, một thế hệ các cây bút trẻ trong lực lượng sáng tác ở tỉnh Hà Tĩnh được hình thành và có nhiều cống hiến, trong đó có Trưởng ty tuyên truyền văn nghệ Hồ Tôn Trinh và các hoạ sĩ Hoàng Nguyên Kỳ, Phạm Lê Khang, các nhạc sĩ trẻ như Trần Thượng Trí, Văn Tuyển, Văn Ký, Tôn Thất Triêm, Lệ Thuỷ, Tân Huyền, các cán bộ văn hoá văn nghệ như: Xuân Tửu, Thanh Minh, Vũ Hoàng (Thái Kim Đỉnh)…

Tọa đàm khoa học: Giáo sư, Viện sĩ Hồ Tôn Trinh – Nhà văn hóa đất Thành Sen

Hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954), ông chuyển ra Hà Nội và tham gia vào các hoạt động tuyên huấn văn nghệ giáo dục ở Văn phòng Văn xã thuộc Phủ Thủ tướng và sau là Ban Tuyên huấn Trung ương. Năm 1959, ông được cử tham gia xây dựng Viện Văn học cùng với các học giả nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Cao Xuân Huy…trong vai trò thư ký khoa học. Như vậy là từ môi trường hoạt động tuyên huấn, tuyên truyền văn nghệ phục vụ kháng chiến và kiến quốc, gần 40 tuổi đời ông mới đến với con đường nghiên cứu văn học. Từ đó, ông được tiếp xúc với những học giả hàng đầu của giới khoa học xã hội và nhân văn nước ta. Thời kỳ này, ông phụ trách việc nghiên cứu văn học phương Tây tại Viện Văn học, thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước. Trong số các tác phẩm văn học phương Tây mà ông dịch/tham gia dịch phải kể đến bộ tiểu thuyết Đất vỡ hoang của nhà văn Xô-viết M. Solokhov, một tác phẩm cổ điển của nền văn học xã hội chủ nghĩa. Ông đã từng đảm nhiệm các chức vụ: Thư ký khoa học Viện Văn học (1960-1967), Phó viện trưởng Viện Văn học, Phó viện trưởng Viện Khoa học Xã hội miền Nam (1968-1982); Phó tổng biên tập tạp chí Vietnam Sciens Sociàles (1982-1985); Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học (1985-1988); Chủ tịch hội đồng khoa học Viện Văn học (1985-1988, 1996-2000). Ngoài ra ông còn là Ủy viên Ban thường trực Hội đồng Quốc gia chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hiệp hội Ký hiệu học Quốc tế, Phó chủ tịch Hiệp hội các Hội đồng Khoa học xã hội châu Á và Thái Bình Dương, Phó chủ tịch Uỷ ban Quốc gia UNESCO. Năm 1979, ông vinh dự được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Hungary. Lúc này, danh hiệu Viện sĩ ở Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội còn rất hiếm trừ trường hợp tiêu biểu của Giáo sư-Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn; Năm 1982, ông được phong hàm Giáo sư; năm 1989, nhận Giải thưởng khoa học Rokefeller (Mỹ); năm 1996, nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 cho cụm 5 công trình nghiên cứu lý luận và phê bình văn học gồm: Phương Tây, văn học và con người; Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học; Về khoa học và nghệ thuật trong phê bình văn học; Đối thoại văn học; Từ ký hiệu học đến thi pháp học. Ông đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Kháng chiến hạng Ba và hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhất và Huân chương Độc lập hạng Nhất. Các học giả khoa học đều có chung nhận xét và đánh giá: GS-VS Hồ Tôn Trinh thuộc lớp cán bộ khoa học xã hội đầu tiên đặt nền móng cho lĩnh vực lý luận, phê bình văn học của nước ta. Tên tuổi của ông được nhắc đến nhiều trong vai trò một người đi tiên phong tìm tòi, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu hiện đại của lý luận văn học thế giới như ký hiệu học, thi pháp học, văn học so sánh…ở Việt Nam. Điểm nổi bật ở GS-VS Hồ Tôn Trinh là khả năng kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa dân tộc và tri thức hiện đại của nhân loại. Ông tiếp thu lý luận văn học phương Tây, các trường phái triết học, ký hiệu học, xã hội học văn chương...để soi chiếu, lý giải văn học Việt Nam, nhưng không sao chép hay rập khuôn. Đó là tinh thần hội nhập chủ động, chọn lọc và sáng tạo. Quá trình học thuật của ông không tách rời thực tiễn, mà luôn gắn với yêu cầu đổi mới tư duy và sự phát triển đất nước. GS-VS Hồ Tôn Trinh sớm ý thức rõ điểm xuất phát của khoa học nghiên cứu văn học là nền văn hóa dân tộc. Chính vì vậy, ông luôn bám chặt vào gốc rễ của truyền thống dân tộc, luôn tìm đến ngọn nguồn như tên một tác phẩm của ông là "Văn học ngọn nguồn và sáng tạo". Nhờ cái nôi của văn hóa dân tộc mà bút lực của ông đã vươn xa; và luôn vươn được xa là nhờ ông biết bám chặt vào gốc rễ của truyền thống dân tộc. Theo GS. chỉ có một quan niệm: “Trong lịch sử văn hóa nhân loại, không một dân tộc nào tồn tại và phát triển nhờ dựa vào văn hóa nước ngoài”. Văn hóa là sức sống bên trong, là cuộc vận động trí lực và sáng tạo; là lao động, sinh sống và phát triển trong cái nôi địa hình thái và môi trường văn hóa xung quanh mình. Càng phát triển, bản sắc dân tộc của văn hóa càng rõ nét, đa dạng và trong xu thế giao lưu với văn hóa các nước. Bản sắc dân tộc nói chung và bản sắc văn hóa nói riêng là biểu hiện của tiềm năng sáng tạo không ngừng của dân tộc. Một nền văn hóa đóng cửa, tự giam mình trong sự tù đọng của địa phương thì trước sau cũng bị xói mòn và cuối cùng là sự suy vong của nền văn hóa ấy. Có thể nói di sản của GS-VS Hồ Tôn Trinh không chỉ nằm ở số lượng các công trình nghiên cứu, mà chính là cách tư duy hiện đại, xuyên ngành, liên ngành và có chiều sâu văn hóa. Ông từng bước mở rộng không gian nghiên cứu văn học Việt Nam, đưa nó vào đối thoại với thế giới, góp phần khẳng định tiếng nói trí tuệ Việt Nam trên bản đồ học thuật toàn cầu.

GS-VS Hồ Tôn Trinh không chỉ là nhà khoa học uyên thâm, mà ông còn là một người rất khiêm tốn và đức độ. Khi mà tên tuổi của ông đã được các tổ chức biên soạn tiểu sử danh nhân đưa vào những từ điển nổi tiếng thế giới như: Năm 1990, Tổ chức biên soạn tiểu sử danh nhân của Mỹ Who’s Who in the World (Ai là ai trên thế giới) bầu ông là danh nhân và đưa tiểu sử vào cuốn Từ điển danh nhân của tổ chức này. Năm 1992, Trung tâm biên soạn tiểu sử danh nhân của Anh ở Cambridge đã bầu và đưa GS-VS Hoàng Trinh vào Từ điển danh nhân. Năm 1993, Viện biên soạn từ điển danh nhân của Mỹ A.B.I đã ghi tên và tặng ông bằng “Danh nhân suốt đời” với dòng chữ “Tặng ông Hồ Tôn Trinh người được tuyển chọn đưa vào từ điển danh nhân của A.B.I lần thứ 5 do những thành tích nghiên cứu xuất sắc về Ký hiệu học”. Tuy nhiên ông vẫn chưa bằng lòng, mà vẫn nguyện “luôn cố gắng làm việc thầm lặng, hăng say, đeo đuổi đến cùng sự nghiệp để có thể trở thành một chuyên gia đáng tin cậy”. Với ông, trên 40 năm chặng đường nghiên cứu khoa học là quảng đường tự học, như ông từng tâm sự “vừa học vừa làm, làm đến đâu học đến đấy, học đến đâu làm đến đấy”. Trong cuộc sống đời thường của mình, GS-VS luôn được bạn bè, đồng nghiệp, học trò quý mến, cảm phục bởi những đức tính của một thầy đồ xứ Nghệ như: giản dị, khiêm tốn, ham học hỏi, ông thành thạo ngoại ngữ Pháp, Anh và sử dụng tốt tiếng Nga, tiếng Hungary và nhiều lần được mời giảng dạy về văn học tại các nước Liên Xô, Hunggary, Pháp, Mỹ, Nhật Bản... Ông là người tận tâm và giành nhiều tâm huyết để đào tạo các thế hệ học trò. Nhiều học trò được ông trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học, nay đã trưởng thành, trở thành các nhà nghiên cứu có tên tuổi như PGS.TS Trương Đăng Dung, PGS-TS Nguyễn Ngọc Thiện, PGS-TS Đặng Việt Bích, PGS.TS Hà Công Tài,  PGS.TS Phạm Thành Hưng và nhiều người khác nữa…

Có thể khẳng định GS-VS Hồ Tôn Trinh từ một nhà hoạt động cách mạng trên lĩnh vực tuyên huấn, tuyên truyền văn nghệ, với chí tiến thủ, ham học hỏi đã trở thành một trí thức lớn, nhà nghiên cứu lý luận văn học xuất sắc và là nhà văn hóa tiêu biểu của quê hương Hà Tĩnh. Ông là tấm gương và hình ảnh của thế hệ trí thức Việt Nam bản lĩnh, sáng suốt và đầy trách nhiệm trong hành trình phát triển và hội nhập quốc tế. Việc ghi nhớ công lao đóng góp của GS-VS Hồ Tôn Trinh cho đất nước, quê hương, gìn giữ và phát huy các giá trị di sản của ông trên quê hương Thành Sen - Hà Tĩnh là một việc làm đầy ý nghĩa, nhân kỷ niệm lần thứ 105 năm, ngày sinh của ông (28/9/1920-28/9/2025)./.

N.T.S

. . . . .
Loading the player...