Tạp chí Hồng Lĩnh số 230 tháng 10/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở...” của tác giả Vương Khả Sơn
Phần 1
ĐẤT LỬA ĐỨC HÒA
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng, bỗng gặp cánh tay đưa...".
Tôi mượn lời thơ của cố thi sĩ Chế Lan Viên trong thi phẩm "Tiếng hát con tàu" để nói hộ lòng mình khi về lại chiến trường xưa, "Nơi đồng đội tôi nằm"; về lại với bà con, cô bác Đức Hòa (tỉnh Long An, nay là tỉnh Tây Ninh) - những người đã cưu mang, nuôi dưỡng chúng tôi trong chiến tranh chống Mỹ vô cùng ác liệt, để cùng dâng nén hương lên linh hồn đồng đội đã chiến đấu và vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này sau bao tháng năm xa cách.
Đã gần 8 mùa xuân, kể từ năm 2018, tôi chưa có dịp về lại nơi này. Nơi trong chiến tranh chống Mỹ năm xưa, không một thời khắc nào ngưng tiếng súng và khói lửa đạn bom; thương vong, chết chóc thường nhật như cơm bữa.
Được tin tôi trở lại Đức Hòa từ Nhà sáng tác Cần Thơ để bổ sung tư liệu cho tác phẩm, Phan Văn Quê (nguyên là giáo viên THPT An Ninh, đã nghỉ hưu) chạy chiếc ô tô từ xã An Ninh Đông (nay hợp nhất ba xã An Ninh Đông, An Ninh Tây và Lộc Giang lấy tên mới là An Ninh, tỉnh Tây Ninh) lên TP Tân An (nay là phường Tân An) đón về mà lòng tôi bồi hồi, xao xuyến với bao cảm xúc đan xen.
Quê là con của liệt sĩ Phan Văn Tài - bộ đội địa phương hy sinh năm 1968 trong trận đánh lính Mỹ càn quét. Mẹ Quê là bà Huỳnh Thị Dạ - cơ sở cách mạng bí mật trong kháng chiến chống Mỹ. Tôi gặp lại Trong (vợ Quê) cũng từng là giáo viên THPT An Ninh. Em mừng vui ra mặt khi gặp lại “anh Hai Hà Tĩnh" sau nhiều năm dài xa biệt.

Nghĩa trang liệt sĩ huyện Đức Hòa, Long An với trên 6000 liệt sĩ. Trong đó có gần 500 liệt sĩ - đồng đội Trung đoàn 271 hy sinh
Sau ngày giải phóng, Quê và Trong là học sinh cùng lớp của Trường THPT An Ninh. Học hết phổ thông, họ cùng vào Đại học Sư phạm. Tốt nghiệp, cả hai cùng về lại ngôi trường cũ làm giáo viên Ngữ văn rồi nên duyên chồng vợ. Nay họ đã nghỉ hưu. Sự ân cần và chu đáo của vợ chồng Quê khiến bao mỏi mệt của tôi trên chặng đường dài từ Cần Thơ lên, nhanh chóng tan biến.
17 năm trước, lần đầu tiên tôi có chuyến về thăm chiến trường xưa, sau 30 năm giải phóng. Đó là dịp Trường THPT An Ninh mời tôi về giao lưu với giáo viên và học sinh của trường, nhân dịp cuốn Ký ức chiến tranh của tôi được Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành vào tháng 4/2006, hiện đã tái bản lần thứ 5 với trên 5 vạn bản (chưa kể sách bị in ngoài luồng). Ngoài ra đã phát hành ở nước ngoài bằng tiếng Anh và tiếng Đức). Sách đã đến tay hàng triệu độc giả cả trong nước và ngoài nước, với bà con cô bác cùng các trường học trong nước và ở Long An trong đó có thầy trò ngôi trường này.
Thắp nén hương tưởng nhớ trước di ảnh song thân của Quê mà lòng tôi bùi ngùi, tiếc thương hai người đồng chí đã cống hiến công lao và máu xương cho Tổ quốc.
Tiếp đó là những câu chuyện kể đan xen không dứt về các nhân chứng chiến tranh của vợ chồng Quê với tôi cách đây 17 năm và lần gần đây vào năm 2018.
Thật bất ngờ hay tin lần này "Hai Sơn Hà Tĩnh" lại về An Hiệp, buổi chiều má Hai Dỡn (Võ Thị Dỡn - vợ liệt sĩ) ở tuổi 84, vẫn chạy xe máy đến gặp tôi. Má mừng vui khôn tả vì 17 năm trước, trong lần đầu tôi về, má là một trong những nhân chứng cùng với mẹ của Quê chứng kiến toàn bộ diễn biến sau trận đánh bất thành của Đại đội 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 271 vào ngày 11/5/1972, giúp tôi hoàn thành bài phóng sự điều tra (đăng trên báo Long An hồi đó), cùng với sự quyết tâm bảo vệ sự thật lịch sử của người dân nơi đây để xóa đi dòng chữ "Địch chôn chung vào 1 hố" trên tấm bia tưởng niệm 62 liệt sĩ mà trước đó, những người xây dựng nhà bia đã ghi sai lệch, gây phản ứng, bức xúc cao độ cho cô bác nơi đây.
Theo nguyện vọng của tôi, má Hai Dỡn nhớ lại chi tiết về hậu trận đánh năm xưa để giúp tôi hoàn thiện ký sự này. Má kể, lúc đó ngoài má và má Huỳnh Thị Dạ, còn nhiều người khác là những người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh với địch để được chôn cất 62 liệt sĩ, đồng đội tôi. Tiêu biểu có má Tư Cào (Võ Thị Cào) - người từng đối đầu xe tăng Mỹ năm 1966, dang hai tay chặn không cho xe tăng Mỹ đi vào ruộng dưa và lúa, buộc phải rẽ lối khác, đi vào bãi mìn của du kích, nổ tung. Họa sĩ Lê Lam đã vẽ bức tranh tiêu đề "Dừng lại" về người phụ nữ Long An anh hùng này. Hiện bức tranh "Dừng lại" về bà Võ Thị Cào còn được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam tại Hà Nội.
Sau trận đánh, kẻ địch dã man đã cấm không cho dân chôn cất các anh. Chúng phơi thi thể đồng đội chúng tôi trên cánh đồng An Hiệp hơn hai tuần lễ đến khi phân hủy. Mùi tử khí nồng nặc ô nhiễm đến mấy xã. Người dân đã đấu tranh khôn khéo nhưng cương quyết với kẻ địch, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng bí mật. Cuối cùng, chúng đã phải nhượng bộ để cô bác được chôn cất các anh.
Má Dỡn cho biết thêm, tham gia mai táng 62 liệt sĩ năm đó có ông Trần Văn Rịa, bà Huỳnh Thị Gan, bà Trần Thị Săng (Chín Săng), ông Võ Văn Thưởng, ông Nguyễn Văn Tờ (nhà sư) và con trai là Nguyễn Văn Giấy - người dùng xe lôi chạy sang Trảng Bàng (Tây Ninh) mua hương nến, chiếu, vải liệm và mấy chục can xăng 20 lít về hỏa thiêu rồi liệm, chôn cất thi thể các liệt sĩ. Ngoài ra còn có ông Nguyễn Văn Chóng, bà Huỳnh Thị Đẩu - chị gái của Quê; ông Hồ Khắc Phục - cháu ông Nguyễn Văn Tờ. Chính họ là những người có công đầu cùng với người dân An Hiệp đấu tranh quyết liệt với tên xã trưởng và đồn trưởng ác ôn. Họ nói "Các ông đừng ác đức quá. Cổ nhân nói rồi, "Sống là thù, chết là bạn", họ chết rồi sao không cho chúng tôi chôn cất họ, để ô nhiễm tử khí đến mấy xã chúng tôi...". Buộc chúng phải để bà con mai táng các anh. Sau giải phóng, di cốt 62 liệt sĩ đã được cất bốc đưa vào an nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Đức Hòa.
Má Dỡn ngậm ngùi cho biết, trong số nhân chứng từng gặp tôi năm 2007, nay chỉ còn má và má Chín Săng cùng ông Hồ Khắc Phục. Nhưng má Chín Săng đã bị lẫn vì già yếu, không thể đi lại được nữa. Những nhân chứng năm đó, giờ hầu hết đã qua đời, để lại một khoảng trống tiếc thương không thể lấp đầy. Má Hai Dỡn, vợ chồng Quê và tôi cùng cúi đầu ngậm ngùi tưởng nhớ những người đã khuất.

Má Hai Dỡn, 84 tuổi một trong số cô bác chôn cất 62 liệt sĩ hy sinh ngày 11/5/1972 và tác giả.
Nay thì tại khu đất năm xưa 62 liệt sĩ nằm lại đã tọa lạc khu đền thờ hoành tráng, thiêng liêng, xứng tầm với sự hy sinh của các anh (ảnh).
Năm 2022, khu tưởng niệm (cũ) 62 liệt sĩ này đã được tỉnh Long An công nhận là di tích lịch sử cấp Tỉnh. Ghi nhận công lao và sự hy sinh xương máu của các anh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và cuộc sống hôm nay!
Phần 2
LỘC GIANG KIÊN TRUNG
... Thời gian không có nhiều, tôi chỉ có hai ngày đi thực tế, trở lại mảnh đất ghi dấu bao kỷ niệm xương máu và tình cảm của đồng đội và cô bác nơi đây. Sáng hôm sau rời ấp An Hiệp, tôi nhờ xe máy của Quê theo đường tỉnh 825 (ngày ấy là lộ 10) chạy về Ngã ba Lộc Giang, nơi mỗi đêm từ ngoài bưng - vùng giải phóng - chúng tôi phải vào ấp chiến lược móc nối với cơ sở cách mạng, làm công tác dân, địch vận rồi nhận gạo, muối, thực phẩm, thuốc men... Có khi tập kích cối 81 vào đồn địch. Biết bao lần chạm trán đại đội thám sát ác ôn 773, Tiểu khu Hậu Nghĩa phục kích nổ súng hoặc "dính" mìn claymore do chúng giăng bẫy. Rất nhiều đồng đội tôi hy sinh trên quãng đường này.
Lộc Giang từng lưu dấu biết bao kỷ niệm trận mạc bi hùng và tình người cao đẹp của cô bác nơi đây.
Thời điểm này tôi là lính C4, D9, E271 trực tiếp tham gia nhiều trận đánh ác liệt. Trận đánh Căn cứ ngã ba Lộc Giang vào đêm 4/5/1972, phối hợp với Đặc công Trung đoàn 429 là một ví dụ. Nơi này là cứ điểm chiến lược, cốt tử của địch, nhằm chốt chặn, ngăn quân ta từ Campuchia vượt sông Vàm Cỏ Đông ở hướng tây bắc Sài Gòn.
Do bất ngờ bị lộ quá sớm lúc cắt rào kẽm gai, mìn sáng vụt lên chói lóa cả một vùng rộng lớn. Địch lập tức nổ súng chế áp. Bộ đội đặc công từ phương án mật tập chuyển sang đánh cường tập, vừa kiềm chế các lô cốt đầu cầu bởi hỏa lực địch xả đạn ra như vãi trấu, vừa rút lui, đưa thương binh, liệt sỹ ra ngoài. Đơn vị tôi ở vòng ngoài hứng chịu mưa pháo và cối nặng nề do địch bắn chặn, hy sinh và bị thương khá lớn. Trận đánh bất thành, chúng tôi những người còn lại được lệnh đưa thương binh, liệt sĩ rút ra phía sau để bảo toàn lực lượng còn lại. Đồng chí chính trị viên đại đội tôi Nguyễn Văn Doãn quê Quảng Bình bị mất phương hướng đi lạc, bị địch bắt sống. Chúng tra tấn dã man, hòng lấy khẩu cung nhưng anh thà chết, quyết không khai. Cuối cùng bị chúng chặt đầu bêu ở cổng chợ Lộc Giang để thị uy dân chúng (Ký ức chiến tranh đã dẫn).
Với tôi, Lộc Giang còn lưu giữ kỷ niệm biết bao trận đánh ác liệt sau này. Hai lần tôi bị thương đi viện về, tôi được bổ sung vào C2,D8 và C3,D7 E271 trong các chiến dịch tiếp theo như "Bảo vệ Hiệp định Paris" 1973-1974; "Chiến dịch mùa Xuân 1975" và "Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử".
Một trận đánh đáng nhớ là trận "diệt ác, phá kềm", thực thi bản án của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tử hình tên ác ôn Sáu Đởm (xã trưởng Lộc Giang hồi đó). Ngay sau khi tên ác ôn đền tội, tôi rút nhanh bản án tử hình từ túi áo mình đặt lên ngực hắn... ("Ký ức chiến tranh" đã dẫn)...
... 50 năm, những năm tháng khói lửa đạn bom chỉ còn là những mảng ký ức. Nhưng những kỷ niệm chiến trận và tình người dân Cách mạng nơi đây từng cưu mang, giúp đỡ, đùm bọc chúng tôi như các chị Tư Bồi, Tư Riêng và bà con cô bác nêu trên... mãi khắc ghi như những hình ảnh đẹp đẽ và sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Một trong những kỷ niệm không phai là tình cảm thiêng liêng sâu nặng của các má, các ba dành cho những người lính Giải phóng chúng tôi. Sự ưu ái về tình cảm cũng như vật chất dành cho bộ đội Giải phóng thật gần gũi, ân cần, dân dã, dễ thương và "rất Nam Bộ" là câu nói "mấy thằng Bắc"!
Các má thường mắng yêu mấy đồng chí nam, nữ du kích địa phương mỗi khi có món quà gì đều "thiên vị" cho bộ đội Giải phóng: "Tụi bây quê hương ở đây, gần cha mẹ, anh em, cô bác. Rủi hy sinh còn có người đem về chôn cất, mồ yên mả đẹp. Còn tụi nó, "mấy thằng Bắc" bỏ quê hương, xứ sở cha mẹ, người thân vào đây chiến đấu đánh Mỹ giải phóng Miền Nam. Không may hy sinh, đồng đội chôn cất chỉ có tấm tăng nilon, không có hòm vỏ, không người thân thích, mồ mả thất lạc, vô danh tội nghiệp lắm. Nên tụi bây không được so bì với tụi nó..."
Thật cảm động và thiêng liêng đến rơi nước mắt...
Hơn 5 thập kỷ đi qua. Thế hệ các má, các ba thời đó giờ hầu hết đã thành thiên cổ, đã bay về "miền mây trắng" cả rồi. Còn lại chỉ là kỷ niệm và nỗi kính phục, tiếc thương. Tôi xem đó như một thứ hành trang tinh thần mang theo trong tâm thức suốt những tháng năm còn lại của chúng tôi - những người lính Giải phóng đánh Mỹ năm xưa...
Phần cuối
NƠI ĐỒNG ĐỘI TÔI NẰM
... Sau khi dâng hương thêm lần nữa viếng 62 đồng đội Đại đội 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 271 hy sinh ngày 11/5/1972, tôi lên xe máy chạy một mạch theo hướng ngược lại trên đường tỉnh 825 quay về Nghĩa trang Liệt sĩ Đức Hòa - nơi đồng đội tôi yên nghỉ. Nghĩa trang tọa lạc trên diện tích khá rộng và thoáng nhưng số lượng mộ liệt sĩ nơi đây đã gần kín khuôn viên.
Mọi người đều biết, nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn rộng lớn là vậy, nhưng cũng chỉ có trên 10.000 ngôi mộ. Trong khi Nghĩa trang Liệt sĩ Đức Hòa (tỉnh Long An) chỉ là nghĩa trang của 1 huyện, vậy mà đã có gần 6.000 mộ liệt sĩ. Trong đó có gần 500 đồng đội Trung đoàn 271 tôi. Nhưng vẫn tiếp tục bổ sung các liệt sĩ mới và sẽ tìm được...
Chẳng nhớ rõ đã bao lần về đây kể từ sau khi kết thúc chiến tranh, nhưng không lần nào tôi lại không rưng rưng xúc động. Tại đây, nơi Nghĩa trang Liệt sỹ này 5.735 ngôi mộ (chưa kể rất nhiều ngôi mộ tập thể), lô nối lô, hàng nối hàng thẳng tắp, trang nghiêm như chúng tôi năm xưa trước giờ lâm trận.
Các anh ơi!
Anh Chương, anh Thiện, anh Hưởng, anh Tam, anh Hinh và các anh ơi! Linh thiêng các anh có biết tôi lại về đây với các anh không?! Tài ơi, Nhâm ơi! Tao đã lại về với chúng mày đây! Trận bom khủng khiếp trưa ngày 18/5/1972 tại ấp An Thuận, xã An Ninh, đã cướp đi các anh - 8 đồng đội hy sinh tại chỗ - và 5 đồng đội, của C4,D9 chúng mình bị thương nặng, trong đó có tôi. Thương tâm nhất là cái chết không toàn thây của Tài (Thanh Lộc) và Nhâm (Song Lộc - Can Lộc cùng nhập ngũ với tôi). Tài bị mảnh bom cắt phạt bay mất 1/2 khuôn mặt từ gò má trở ra phía trước, chỉ còn 1/2 cái "gáo dừa" phía sau. Máu và óc lênh láng. Nhâm bị bom phá nát lồng ngực và bụng, toàn bộ thi thể bị hất bay ra ngoài ruộng lúa vừa gặt. Buổi tối, khi đưa các anh đi mai táng, dù bị thương đau đớn, tôi phải cố lết theo dùng tay cuộn đoạn ruột dài, kéo lê lòng thòng trên mặt ruộng đặt lên bụng Nhâm. Đến giờ nghĩ lại giờ phút đó, vẫn nổi da gà, vì đau đớn và kinh hãi. Bởi khi vừa bước qua tuổi 17 đã phải đối mặt với hình ảnh ghê rợn, tang thương và ám ảnh ngoài sức tưởng tượng đó!
Đã 53 năm trôi qua, các đồng đội yêu quý của tôi đã thành đất đai cả rồi. Chúng tôi may mắn sống sót, trở về với "cuộc sống cơm áo ghì sát đất" bầm dập, khốn cùng sau chiến tranh, nay cũng đã bước qua tuổi 73-75 trở lên hết cả. Trong số "sót sổ" sau chiến tranh, nhiều người cũng đã về với đất...! Tôi bần thần như người mộng du...
Bên ngôi mộ Hoàng Văn Tài trào dâng cảm xúc, tôi có ngay những vân thơ "Viếng bạn". Tôi đã khóc:
"Chúng tao già rồi...
Chúng mày thì trẻ!
Ngàn đời... tuổi vẫn Hai Mươi!..."
Và thì thầm hứa, "Các anh ơi, chúng tôi những người còn sống sẽ nối tiếp các anh để sống thay, làm thay, hưởng thụ thay... những gì lẽ ra các anh phải và sẽ được làm, được hưởng..."
"Món nợ lớn" với các anh tôi chỉ mới trả được phần nào qua cuốn hồi ký "Ký ức chiến tranh" và khá nhiều bút ký, phóng sự, tản văn và thơ của mình. Đặc biệt, suốt 14 năm qua, sau khi nghỉ hưu tôi đã phượt xe máy từ Bắc chí Nam để tìm lại những đồng đội còn sống sót, nhất là những đồng đội đã hy sinh để dâng hương tưởng niệm và giúp đỡ các đồng đội có hoàn cảnh khó khăn do bị mất giấy tờ không có chế độ đãi ngộ, hay các nạn nhân phơi nhiễm và lây nhiễm chất độc dioxin do Mỹ rải xuống chiến trường miền Nam bằng nguồn Quỹ "Tình Thương" do tôi tự lập...
...Trời đã về chiều. Nắng gắt gao đã nhẹ bớt, tôi rời mộ Tài để thắp hết bó nhang lớn trên tay nhưng... làm sao thắp hết được tất cả gần 6.000 ngôi mộ đồng đội trong nghĩa trang bao la này. Đành thắp chung trên lư hương Tượng đài và thầm khấn anh linh đồng đội nằm lại nơi này khi ánh chiều muộn buông xuống nghĩa trang, quyện lẫn những làn khói nhang mỏng mảnh như hương hồn đồng đội tôi hiển linh, giăng mắc trên những hàng bia mộ trắng toát, thẳng tăm tắp như những hàng quân nghiêm trang, hùng tráng năm xưa trước giờ ra trận.
Tôi kết thúc hành trình hai ngày về lại vùng đất lửa Đức Hòa ngập tràn bom đạn năm xưa để viết ký sự này!
Tôi sẽ còn trở lại với cô bác, bà con nơi đây, đặc biệt là gần 6.000 đồng đội đang yên nghỉ ở nghĩa trang này, trong đó có gần 500 đồng đội của Trung đoàn 271 chúng tôi.
Tôi sẽ còn trở lại nơi này. Bởi:
"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn...!"
Mở ngoặc thêm chi tiết này để các bạn hình dung. Trung đoàn 271 chúng tôi ngày 11/11/1971 khi đặt những bước chân đầu tiên vượt Trường Sơn, có trên 2.600 quân, chưa kể chừng đó quân bổ sung từ 1972 trở đi (nghĩa là tổng trên 5.000 người). Vậy mà sau giải phóng (30/4/1975) điểm lại chỉ còn trên 300 đồng đội...(?!)
Bạn đã thấy cái giá phải trả cho độc lập dân tộc và cuộc sống hôm nay của một Trung đoàn thôi, mà nó đã khủng khiếp đến mức đó!
Từ đó để thế hệ hôm nay và mai sau cần có thái độ sống như thế nào đối với sự hy sinh máu xương vô bờ đó của bao thế hệ ông cha!!!
Trại viết Cần Thơ, tháng 9/2025
V.K.S