31-08-2025 - 04:02

Nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài và chủ nghĩa hiện thực thị giác trong văn học Việt Nam trước 1975

Tạp chí Hồng Lĩnh số 228 trân trọng giới thiệu bài viết “Nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài và chủ nghĩa hiện thực thị giác trong văn học Việt Nam trước 1975” của Lã Nguyên

Ai cũng biết, văn học dùng ngôn từ làm chất liệu kiến tạo hình tượng. Loại chất liệu này có khả năng đánh thức ở con người kinh nghiệm về đường nét, màu sắc, hình khối. Nhờ thế, nó có thể tạo ra những hình tượng giàu tính tạo hình khiến hội hoạ, điêu khắc lắm khi cũng phải bất lực. Nhưng từ trong bản chất, hình tượng và lời nói là những phạm trù khác nhau. Hình tượng là khách thể hữu hình, ngôn từ là chất liệu vô hình, phi vật thể. Hình tượng mở ra trong không gian, lời nói có tuyến tính, vận động trong thời gian. Lời nói là sự kết hợp của các đơn vị rời rạc, hình tượng là chỉnh thể nguyên khối, nguyên hợp… Sử dụng ngôn từ làm chất liệu, văn học có thể tổ chức hình tượng theo hai hướng giống như hai thái cực trái ngược nhau. Ở cực thứ nhất, hình tượng trở thành một biểu tượng đầy tính ước lệ, cái được biểu đạt, tức là ngữ nghĩa, có quan hệ hết sức tự do với cái biểu đạt. Ở cực thứ hai, hình tượng chỉ là một kí hiệu thị giác, là đối tượng chiêm ngưỡng thuần tuý của mắt, cái được biểu đạt, tức là ngữ nghĩa, hoàn toàn lệ thuộc vào kí hiệu thị giác này. Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước năm 1975, hình tượng được mã hoá chủ yếu theo hướng thứ hai.

Rất dễ nhận ra kí hiệu thị giác trong văn học trước 1975, vì ở đây, hình tượng thường được kiến tạo theo nguyên tắc vẽ tranh, đầy mầu sắc và đường nét. Tố Hữu thấy:“Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh”. Ông mời gọi: “Anh hoạ sĩ làng Hồ, lại đây anh, mà vẽ”. Nguyễn Tuân hào hứng vẽ “áp - phích”. Trong Đường lên Tây Bắc, ông viết: “Bây giờ thì khác quá đi rồi. Cuộc đời có tổ chức, có trật tự, công khai có Đảng có kế hoạch, cuộc đời mới đang bén rễ đâm chồi mạnh, và nơi đây đang kết tinh nhiều giống hoa say nồng chưa nở một lần nào trên đồi lũng Thái Mèo. Trong tôi đang hình thành lên một tấm áp-phích đòi tuyên truyền bằng được cho Tây Bắc giàu có sáng tươi và hồn hậu”. Vẽ tranh, dựng áp-phích dĩ nhiên phải chuyển nội dung thẩm mĩ từ trong tư duy ra bên ngoài thành mầu sắc, dấu vết, hình bóng …

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhận xét rất tinh tế về ngôn ngữ giàu hình ảnh và màu sắc trong thơ Tố Hữu. Ông phát hiện: “hình ảnh ngôn từ trong thơ Tố Hữu thể hiện một thế giới đang “bng sáng, bc cháy, nóng bng”. Tố Hữu “thích nói đến mt tri chân lý, mt tri lên, đ như sao ho, sáng sao kim, chói li khi sao băng, c đa cu thành ngôi sao, muôn vn vì sao dn đưng”. Ông còn nói:  Tố Hữu “thích dùng những hình ảnh nóng cháy – ngn đuc thiêng liêng, tim ta làm ngn la…”, vì thế, “cả thế giới trong thơ Tố Hữu, ngoại trừ bọn phản động, tất cả đều phát sáng”. Nhưng thơ Tố Hữu không phải là ngoại lệ. Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975,  liệu có nhà văn, nhà thơ nào không so sánh “Đảng ta”, “lãnh tụ ta”, “cách mạng ta” với “mặt trời”, “bó đuốc”, “ngọn lửa”? Cho nên, tôi nghĩ, huy động tối đa sức mạnh của ngôn ngữ hình ảnh và màu sắc chói sáng nhằm tạo ra một hin thc th giác là đặc điểm chung của cả một thời đại văn học. Chỉ cần đọc Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thưng, chim báo bão (1967), Nhng bài thơ đánh gic (1972) của Chế Lan Viên, hoặc Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân, ta đã có thể nhận ra điều đó. Trong Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thưng, chim báo bão, Nhng bài thơ đáng gic, tác phẩm nào của Chế Lan Viên cũng tầng tầng lớp lớp những hình ảnh, các hình ảnh sáng chói rực rỡ như “mặt trời”, “ánh đuốc”, “ngọn lửa” được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Hay trong Sông Đà, Nguyễn Tuân miêu tả thiên nhiên như những kì quan. Để miêu tả kì quan, nhà văn sử dụng tầng lớp lớp các k nhk hình đầy âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Hãy xem tấm “áp-phích” mà ông vẽ trong Đưng lên Tây Bc: “…Thy mong mun có mt cuc thi v tem dán thư (…). Vi nhng phong cnh bao la mt màu lãng mn xã hi ch nghĩa, Tây Bc xng đáng in hình tem lên nhiu lá thư gi ti c triu cánh tay min ngưc min xuôi đang hào hng bưc lên đưng xây dng. Trong lòng tm áp-phích s thu bé li đ in tem, tôi mun v mt con đưng hng hào vt vo trên mt cái nmàu lam, mt màu lam sâu sc và chung thu nó din t đúng cái cht ca trin núi Tây Bc, trên chóp núi hin lên mt cái mũ trng bông kết bng cái áng mây yêu đi ca thơ ca Thái; phn dưi hình tem là cái khuôn mt có hnh phúc nhn tin ca ngưi đàn bà Tây Bc c đin”. Hoặc xem cái cách Nguyễn Tuân tả con sông Đà “tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đu tóc chân tóc n hin gia mây tri Tây Bc đang bung n hoa ban, hoa go tháng hai và cun cun mù khói núi Mèo đt nương” và cái màu nước sông thay đổi theo mùa, khi thì “xanh mt mu xanh ngc bích”, khi “l l chín đ, lúc lại “ánh lên cái màu nng tháng ba Đưng thi” thì sẽ rõ ngôn ngữ tạo hình lấp lánh đường nét, sắc màu đậm chất điện ảnh và hội hoạ có vị trí quan trọng như thế nào trong sáng tác của nhà văn này.

Cùng với màu sắc là “hình”, “bóng”. Thơ Tố Hữu để lại trong ký ức độc giả rất nhiều “bóng ngưi”. Bài Bà má Hu Giang được khép lại bằng “bóng má”: “Nưc non muôn quý ngàn yêu. Còn in bóng má sm chiu Hu Giang”. Trong bài Lên Tây Bc có cái bóng rất kì vĩ của anh vệ quốc quân: “Rt đp hình anh lúc nng chiu. Bóng dài trên đnh dc cheo leo”. Về quê mẹ Tơm, “bâng khuâng chuyện cũ”, Tố Hữu không quên: “Đêm đêm chó sa …làng bên đng. Bóng m ngi canh lbóng cn”, “Bóng m ngi trông, vng nưc non”…. Ông xót xa: “Ôi bóng ngưi xưa đã khut ri. Tròn đôi nm đt trng chân đi”.

Gắn liền với bóng là duhình và dáng. Văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa trước năm 1975 ghi du, tạo dáng, tạo hình cho những khái niệm rất trừu tượng, như con người thời đại, Tổ quốc, quê hương. Nguyễn Minh Châu viết Du chân ngưi lính”(1972). Thanh Hải viết Du võng Trưng Sơn (1977) và Thanh Thảo có Du chân qua trng c(1978). Nguyễn Văn Tý viết Dáng đng Bến Tre với lời thơ và điệu nhạc tha thiết:

Ai đng như bóng da, tóc dài bay trong gió

Ơi, nhng cây da đ li cho ta bóng quê.

Ơi, tóc ai dài đ ldáng đng Bến Tre.

Trong nền văn học của chúng ta, có lẽ Chế Lan Viên là thi sĩ đầu tiên tạo ra tứ thơ nổi tiếng: Ngưi đi tìm hình ca nưc (1960): nước mất, không còn hình bóng, Bác phải đi tìm hình của nước:

 Đêm mơ nưc, ngày thhình ca nưc

 Bác reo lên mt mình như nói cùng dân tc:

Cơm áo là đây! Hnh phúc đây ri!

Hình ca Đng lng trong hình ca Nưc.

Năm 1968, Lê Anh Xuân viết “Dáng đng Vit Nam tc vào thế k”. ThơTố Hữu thường xuyên nói tới “bước đi”, “dáng đứng”: “Yêu biết my, nhng bưc đi, dáng đng”.

Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975 không thua hội hoạ trong việc vẽ tranh. Nó cũng không chịu thua điêu khắc trong nghệ thuật tc tưng đài. “Tượng đài” là sự biểu hiện rõ nhất của kí hiu th giác. Ấn tượng thị giác đầu tiên mà tượng đài để lại trong cái nhìn của người chiêm ngưỡng là sự hoành tráng, uy nghi của các mảng khối. Chẳng hạn, trong thơ Tố Hữu có rất nhiều tượng đài, tượng đài nào cũng lộng lẫy, uy nghi, hoành tráng:

Bác ngi đó, ln mênh mông

Tri xanh bin rng rung đng nưc non…

Bác H đó, ung dung châm la hút

Trán mênh mông thanh thn mt vùng tri.

Hoặc:

Mong manh áo vi, hn muôn trưng

Hơn tưng đng phơi nhng li mòn 

Tượng đài còn để lại ấn tượng thị giác đậm nét trong cái nhìn của người chiêm ngưỡng qua cht liu vật chất bằng đá, đng, kim loi quí gợi lên sự bn b, bt hoi, trưng tn của nó. Về phương diện này, tôi nghĩ, nghệ thuật ngôn từ trước 1975 tỏ ra “hơn hẳn” nghệ thuật điêu khắc của dân tộc. Ta biết, từ những năm 70 trở về trước, những tượng đài đầu tiên được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như  Nam Ngn chiến thng ở Thanh Hoá, Du kích làng Nguyn ở Thái Bình, Kép ở Bắc Giang, Chiến thng sông Lô của Tạ Quang Bạo dựng trên ngọn đồi áp mé sông Lô, hay Chiến thng núi Thành của Lê Công Thành…đều được làm bằng bê tông. Nhưng trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, mọi tượng đài đều được dựng lên sững sững như những thành đngvách st. Những ai từng đọc Hòn đt của Anh Đức, hẳn không thể quên những dòng viết về mái tóc chị Sứ, khi chị bị thằng Xăm chém đầu bằng con dao Mỹ: “…Cả ba nhát dao đều chém không đứt đầu chị. Thằng Xăm chùn tay, thở hồng hộc. Hắn liếc nhìn lưỡi dao, ngờ vực. Nhưng đây nào phi vì lưi dao M không bén! Đây ti bi tóc ch S dày quá. Đây chính bi lưi dao chm phi mt sui tóc tt tươi nht, sui tóc ca hai mươi by tui đi con gái, va mưt va dày, gm muôn ngàn si bn cht r t đnh đu bt khut đó r chm xung sát đôi gót chân bt khut đó  (đoạn in nghiêng do tôi nhấn mạnh – LN)” . Và đây là tượng đài người chiến sĩ giải phóng quân trong thơ Lê Anh Xuân:

Anh tên gì hi Anh yêu quí

Anh vn đng lng im như bthành đng

Như đôi dép dưi chân anh bao xác Mĩ

Mà vn mt màu bình d sáng trong

Đọc thơ Tố Hữu, ta sẽ thấy, ông là nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật khắc hoạ chân dung theo nguyên tắc tạc tượng đài. Hãy xem Tố Hữu to không gian và sử dụng nhc điuhình nh tài tình thế nào để tạc tượng đài “chị lao công”:

Nhng đêm đông

Khi cơn giông

Va tt

Tôi đng trông

Trên đưng lnh ngt

Ch lao công

Như st

      Như đng

Ch lao công

Đêm đông

                 Quét rác

Nhà thơ không chỉ dùng “sắt”, “đồng” truyền thống, mà còn lấy cả mây suối, giông gió, chớp lửa thiên nhiên làm chất liệu tạc tượng đài. Đây là tượng đài Ngưi con gái Vit Nam:

Em là ai cô gái hay nàng tiên

Em có tui hay không có tui

Mái tóc em đây, hay là mây là sui

Đôi mt em nhìn hay chp la đêm giông

Tht da em hay là st là đng

Và đây là tượng đài Đảng ta:

Đng ta đó, trăm tay nghìn mt

Đng ta đây, xương st da đng 

Có một đặc điểm tối quan trọng: trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975, tranh vẽ, tượng đài bao giờ cũng tạo nghĩa theo kiểu minh hoạ cho các vai c mu có gốc gác từ huyền thoại. Ở đây, vai cổ mẫu vừa là hạt nhân đồng nhất ngữ nghĩa trong tạo hình, vừa thể hiện nguyên tắc cấu trúc của chỉnh thể văn bản. Vì thế, hình tượng biến thành hình hiu, thành kí hiu th giác, trường nghĩa của mỗi hình tượng, cũng như của toàn văn bản, luôn luôn bị cột chặt vào hệ thống vai cổ mẫu huyền thoại. Chẳng hạn, ứng với trật tự trong không gian nhà binh, tượng đài nhân vật sẽ được phân thành vai ta và vai đch: “chúng là thú vt, ta đây là ngưi”. “Ta”: “Mi con ngưi nhp nhánh mt ngôi sao”. “Địch”: “Mt mèo hoang, mũi chó, râu dꔓlưi dài lê sc máu” (thơ Hoàng Cầm). Hoặc, ứng với tôn ti trong không gian dòng tộc, tượng đài nhân vật “chúng ta” lại được phân thành các vai: ChaM và Chúng Con.

“Cha” là lãnh t“Bác H, cha ca chúng con”. “Vai” của “Cha” là soi đường dẫn lối: “Ngưi ngi đó vi cây chì đ. Vch đưng đi, tng bưc, tng gi . Trong thơ Tố Hữu, các vị lãnh tụ Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, hay Kim Nhật Thành đều là “Cha ca chúng con” với ý nghĩa như vậy. Phẩm chất lớn nhất của “Cha” - người “vch đưng đi” - là anh minh: “Ngưi trông gió b bum, chn lúc. Nưc c hay xoay vn kiêu binh” , hoặc “Lênin nm nhm mt (…) Đ thy trưc nhng bưc đi lch s. “Vai” “vch đưng đi” và sự “anh minh” của “Cha” bao giờ cũng được mã hoá bằng các chi tiết tạo hình: tư thế ung dung, trán rng, mt sáng, ging nói vang vng. Chẳng hạn, nét tạo hình chân dung Lênin: “Mái tóc gi che vng trán rng. Như bóng mây giu ánh mt tri”. Hoặc chân dung tạo hình của Bác Hồ:“Bác H đó ung dung châm la hút. Trán mênh mông thanh thn mt vùng tri. Không gì vui bng mt bác Hi”“Nh Ngưi nhng sáng tinh sương. Ung dung yên nga trên đưng sui reo” 

“Mẹ” là T quc. “Mẹ” đứng sau “Cha”, vì “Cha” là lãnh tụ,“M là đt nưc, tháng ngày ca con” . “Vai” của “Mẹ” là đùm bọc, chở che, nuôi dưỡng. Với ý nghĩa như thế, bà má Hậu Giang trong thơ Tố Hữu là “Mẹ Tổ quốc”. Mẹ Tơm - “bung M - bung tim - giu chúng con” - là “Mẹ Tổ quốc”. Những bà bầm - “Cho con nào áo nào quà. Cho ci con sưi, cho nhà ngh ngơi”  - là “M V quc quân”. “Mẹ” gắn liền với hình ảnh gốc lúa, bờ tre, nương dâu, bãi mía. Phẩm chất của “Mẹ” là  phẩm chất của đất nước, quê hương: lam lũ, nghèo cực, mà tảo tần, son sắt thuỷ chung: “Sng trong cát chết vùi trong cát. Nhng trái tim như ngc sáng ngi!”. Phẩm chất và “vai” của “Mẹ” thường được tô đậm bằng hai chi tiết tạo hình: vóc gy và áo bc, ví như: “M ta không có yếm đào. Nón mê thay nón quai thao đi đu. Ri ren tay bí tay bu. Váy nhum bùn áo nhum nâu bn mùa” (thơ Nguyễn Duy).

“Chúng con” là “Chiến sĩ đng bào”, vây quanh “Cha” và “Mẹ”. “Vai” của “chúng con” là “chiến đu hi sinh”“Chúng con chiến đu hi sinh. Tm lòng son st, đinh ninh li th. Phẩm chất cơ bản của chúng con là anh hùng. “Vai” và phẩm chất anh hùng của “chúng con” được tạo hình bằng những chi tiết hành động: “Anh du kích”: “Na đêm bôn tp dit đn”, “chiến sĩ nông thôn”: “Bt si đá phi thành sn go”, “anh thợ”: “má … vàng thuc pháo. Cánh tay… đy so la gang”, các “em”: “đt đuc đến trưng làng”, hoặc “chị dân công”: “mòn đêm vn ti”. Đây là hệ thống nhân vt hành đng chủ chốt tạo nên nội dung trần thuật trong hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh và toàn bộ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975.

Lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa đề cao nguyên tắc “mô t hin thc chân thc, c th - lch s trong tiến trình vn đng cách mng”. Nhưng thực tiễn chứng tỏ, trước năm 1975, phê bình bao giờ cũng lấy bốn vai tượng đài, - “Cha anh minh” - “M T Quc” - “Chúng con anh hùng” - “K thù by thú d, -  làm chuẩn mực để đánh giá mức độ chân thực của hình tượng nghệ thuật. Cho nên, ta không ngạc nhiên khi có ý kiến phê phán Nguyễn Đình Thi vì trong V b, nhà văn đã để Phượng, một cô gái lãng mạn, con nhà tư sản, ngồi may cờ cách mạng. Ta cũng hiểu vì sao, kể từ bài Sáng tháng Năm (1952) về sau, hình tượng Bác Hồ trong thơ Tố Hữu có sự điều chỉnh rất đáng kể so với hình tượng lãnh tụ trong bài H Chí Minh. Năm 1946, trong bài H Chí Minh, Tố Hữu viết: “H Chí Minh. Ngưi lính già” (…), “Làm tên quân cm t đi tiên phong” (…), “Ngưi xông lên” (…) Tiếng Ngưi thét. Mau lên gươm lp súng”. Chi tiết nào trong bài thơ cũng gợi ra hình ảnh một nhân vật hành động, anh hùng quả cảm. Hình ảnh ấy chỉ hợp với “Chúng con chiến đu hi sinh”. Thế tức là “lạc vai”. Cho nên, giới phê bình thường nhận xét, rằng ở đây, hình tượng lãnh tụ được thể hiện “chưa thật”. Chắc Tố Hữu cũng nghĩ vậy, nên từ Sáng tháng Năm, Bác Hồ của ông không còn là “Ngưi lính già”, mà là “Cha, là Bác, là Anh. Qu tim ln lc trăm dòng máu nh. Người không “xông lên”, không “đi tiên phong”, mà “Bác ngi Bác viết nhà sàn đơn sơ”. Bác cũng không “thét”, “Ging ca ngưi không phi sm trên cao”, mà “Thm tng tiếng, m vào lòng non nưc”. Đúng là Tố Hữu đã chỉnh sửa hình tượng Bác Hồ sao cho hợp “vai” lãnh tụ, hơn là hợp với người thật, với nhân vật tiểu sử Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa như vậy, về mặt chức năng, có thể gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là ch nghĩa hin thc phân vai tưng đài.

Vì sao văn học trước 1975 lại coi trọng nguyên tắc vẽ tranh, tạc tượng đài đến thế? Ta biết, tuyên truyn là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trước 1975. Ngay từ năm 1948, đồng chí Trường Chinh đã nêu ý kiến có tính chất chỉ đạo: “Tuyên truyn cao ti mt mc nào đó thì tuyên truyn tr thành ngh thut. Ngh thut thiết thc ti mt mc nào đó thì ngh thut có tính cht rõ rt là tuyên truyn. Chắc chắn, vẽ tranh, tạc tượng đài sẽ là cách tuyên truyền nhanh nhất. Bởi vì đó là phương tiện tốt nhất có thể dùng để chuyển hiện thực tư tưởng - mà ở đây là cái hiện thực phân vai tượng đài - từ trong tư duy ra bên ngoài, biến nó thành hiện thực thị giác đập ngay vào mắt quảng đại quần chúng. Cho nên, về mặt phong cách, lại có thể gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là ch nghĩa hin thc th giác   

    Hà Ni, 5/5/2014

    L.N

. . . . .
Loading the player...