17-11-2017 - 09:23

Nhà giáo- Nhà thơ Xuân Hoài

Trong giới văn nghệ sĩ, có rất nhiều người xuất thân từ nghề dạy học. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam, xin trân trọng giới thiệu bài viết" Trước bao nỗi nhân gian" của nhà văn Đức Ban viết về chân dung Nhà giáo - Nhà thơ Xuân Hoài, nguyên Chủ tịch Hội liên hiệp VHNT, Giám đốc Sở VHTTDL Hà Tĩnh.

             Sau ngày Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, tôi chuyển từ Tổng đội TNXP 299.P18 về  làm việc ở Hội Văn nghệ Hà Tĩnh. Đón tôi ở ngôi nhà lợp tranh tro lọt thỏm giữa lùm cây um tùm ngoài rìa Thị xã là một người đàn ông có đôi mắt sâu, sáng. Ông bảo ông là Xuân Hoài vừa chuyển từ Giáo dục sang Văn nghệ. Ông và tôi ngồi trong căn phòng khách nhỏ, bên bộ bàn ghế gỗ mộc nứt ngang, nứt dọc trong một ngôi nhà lợp lá cọ ba phia thưng phên nứa, một phía nhìn ra cái sân đất lồi lõm đọng nước. Ông tự pha trà. Bộ ấm chén  trắng bóc, loáng như gương. Ông cho chè ra mảnh giấy báo hình vuông, rồi khum mảnh giấy cho chè rơi từ từ vào ấm. Rất chậm, ông nâng phích nước sôi đặt nhẹ xuống bàn rồi dùng những ngón tay hơi gầy, trắng xanh nhẹ nhàng vặn nắp phích…

     Xuân Hoài sinh ngày 15 tháng 5 năm 1941 trong một gia đình nhà Nho thanh bần ở Thị trấn Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ông về dạy Toán tại trường cấp 3 Đức Thọ. Thời ấy ông là nhân vật lý tưởng của nhiều thanh niên. Dạy giỏi, lịch lãm và còn làm thơ. Bạn bè thì toàn nhà thơ, nhà văn đủ các lứa tuổi, ở nhiều vùng miền. Và là những người có tiếng tăm: Nghiêm Đa Văn, Vũ Duy Thông, Trần Quốc Anh, Lê Duy Phương, Hà Quảng, Lê Xuân Zụ, Trần Hậu Tân, Nguyễn Quốc Anh, Chính Tâm, Duy Thảo…Không ngờ cái sự nổi tiếng cùng những nỗi phiền muộn, những khoảnh khắc trống vắng, những se sắt của cô đơn mà họ chân thật giãi bày bằng con chữ lại thành cái họa. “Một bọn lãng mạn, tiểu tư sản” – Người ta nói thế. Rồi ông bị kỷ luật phải chuyển về dạy ở Cẩm Xuyên. Sau này khi thân thiết nhau ông nói, cuộc đời nhốn nháo này “ Những ai không biết khóc/ Đừng mong chi họ cười”và rằng, cái may, cái rủi thường lẫn vào nhau. Trong may có rủi, trong rủi có may. Tôi mà không bị kỷ luật, cứ một giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh thì chưa hẳn có những bài thơ được bạn đọc nhớ. Làm thơ được bạn đọc nhớ là hạnh phúc lắm. Tôi không về Cẩm Xuyên thì không gặp được cô nữ sinh Nguyễn Thị Thước để rồi thành vợ chồng, để rồi người con gái nết na ấy bù đắp mọi cái thiếu hụt của tôi. 

Nhà thơ Xuân Hoài thời Văn nghệ Nghệ Tĩnh

       Tôi hiểu ra sự thiếu hụt ông nói ấy. Đó là sự thiếu hụt trong trong đam mê, say đắm, trong khát vọng sáng tạo ngôn ngữ thi ca, những thứ thiếu hụt của ai nấy biết. Có người không hiểu ra điều này, có người cố tình không hiểu để cho cái mặc cảm về một khoảng cách xã hội nào đó cứ đẩy ông về một phía: Phía quan chức. Hồi mới nhập tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, năm 1976, ông đã là Phó Hội trưởng kiêm Tổng thư ký Hội văn học, nghệ thuật Nghệ Tĩnh. Mấy năm sau thì trúng Tỉnh ủy viên… Thuở ấy, tôi đã từng ngồi cùng ông trong căn phòng xập xệ chưa đầy 15 mét vuông của khu tập thể. Căn phòng cho vợ chồng ông, một cô con gái, hai cậu con trai và bà mẹ ông, chênh vênh bên mép hồ Thành Vinh.Tôi cũng đã từng chứng kiến ông chở những bì mùn cưa trên chiếc xe đạp cũ kỹ về căn hộ chật chội ở khu chung cư Quang Trung để cho vợ nấu nướng.

Tách tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ông lại trúng Tỉnh ủy viên, trúng thêm Hội đồng nhân dân tỉnh, giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ kiêm Tổng biên tập Tạp chí Hồng Lĩnh.  Mấy năm sau nữa làm Giám đốc Sở Văn hóa, Thông tin. Với những chức danh ấy, ông có đầy quyền uy. Bao kẻ có quyền uy đã gắn quyền uy với quyền lợi để rồi cái bản năng tham, sân, si che mờ mắt nhìn, nhuộm màu đen lên tâm hồn lương thiện. Xuân Hoài không thế. Phẩm chất thi sỹ đã níu giữ ông trước các cám dỗ, chống lại kẻ thù của lòng tử tế, tình thương yêu bằng sự trong sạch của một quan chức và sức mạnh ngôn ngữ thi ca. Ôi, nếu người khác nắm được một phần ba chức quyền của ông thì ít nhất họ đủ sức xây biệt thự, sắm ô tô. Nhưng ông vẫn ở trong căn nhà nhỏ chật chội cạnh đường phố ồn ào, bụi bặm và thiếu thốn nhiều thứ.

Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh Xuân Hoài sau ngày mới tái lập tỉnh

Bản chất thi sỹ đã khiến ông không ít khi ngơ ngác trước mọi sự nhốn nháo của cuộc đời. Tôi hình dung một Xuân Hoài thổn thức, day dứt, run rẩy trước mỗi con người, mỗi sự việc và một Xuân Hoài nghiêm cẩn, rành mạch trước đám đông nơi công sở. Hai con người trong một con người ư? Tôi không nghĩ vậy. Bởi, những phẩm tính ấy không mâu thuẫn đối kháng mà đều xuất phát từ nhân văn. Mười năm từ 1961 đến 1971, chỉ dạy học và làm thơ, còn từ năm 1972  đến năm 2001, ba mươi năm Xuân Hoài làm quan và làm thơ. Những câu thơ ra đời từ nhiệt tình, từ dụng công “làm tư tưởng” không giấu nổi:

 “Ở trường này ai trẻ nhất giáo viên

Thầy hiệu trưởng giới thiệu tôi ra chào Thủ tướng

 Ngót ba chục năm rồi cái hôn- phần thưởng

 Kỷ niệm nhắc hoài xứng đáng buổi đầu tiên

                (Kính tặng bác Phạm Văn Đồng)

 với: “Đã bao giờ quê ta hồ hởi thế

 Cánh tay lo năm tấn mỗi hét ta…”

May những câu thơ như thế thảng hoặc mới gặp. Còn thì tâm hồn Xuân Hoài cứ “lộ” ra - một tâm hồn đa cảm với những dày vò, tự vấn, thất vọng và chua chát. Tôi hình dung ông bước ra khỏi chốn công đường, đứng lại, đăm đăm nhìn bốn phía chung quanh:

“ Trước bao tỉnh cảnh trên đời

Hư hay thực cũng rụng rời trái tim”

Để rồi trái tim yếu mềm phải nấc nghẹn:

“Rượu hết chai còn lại khổ đau”.

 Đêm khuya khoắt, một mình ông ngồi trước màn hình ti vi, lắng nghe tiếng mưa rả rich ngoài trời và tiếng nhắn tin tìm người lạc:

“ Nếu bố mẹ còn  sống…

Nếu anh chị còn sống…

Nếu các em còn sống…

 Biết ai người của máu thịt cắt chia

Nhà cửa giàu sang hay lang thang đói rách

 Dẫu là ai cũng phải rơi nước mắt

 Người tìm người phiêu bạt giữa thế gian”.

                                (Tìm người lạc)

 Đấy là Xuân Hoài, nhưng chưa phải là tất cả. Còn một Xuân Hoài đằm thắm, thiết tha, một Xuân Hoài run rẩy trước cái lúm đồng tiền của một cô gái:

 “Còn không hai lúm đồng tiền

 Để thương để nhớ để phiền cho nhau”;

 trước hương thơm quấn quýt của chùm hoa dẻ:

“Giấu trong lùm không dễ thấy

 Hương thơm bay khó định hướng nơi nào”;

 trước nhành cỏ may phơ phất bên bờ đê chiều cuối năm  lây phây mưa đã thành hoài niệm:

“ Cỏ may mọc ở bờ đê

 Ngoài năm mươi tuổi lối về còn vương”…

trước dòng sông lặng lẽ trôi:

Đời người như nước chảy đi

Đã ra sông rộng, vấn chi đầu nguồn”

 .Cái làm nên Xuân Hoài trong tâm trí nhiều người là những con chữ giản dị, tinh tế, run rẩy trước thân phận con người. 

     Đối với một thi sỹ, không bao giờ nói được là đã thành đạt, đã thỏa mãn với những tác phẩm của mình. Càng nhiều tuổi, thêm sự trải biết, tư duy càng sâu, rộng, anh ta càng thấy cái trách nhiệm dâng hiến của mình nặng nề hơn; thậm chí bị dằn vặt, đớn đau thường xuyên hơn bởi cảm giác bất lực trước con chữ. Ngoài nỗi khổ như nghiệp chướng kia, Xuân Hoài còn gảnh thêm cái gánh nặng của bệnh tật. Ông lâm bệnh lúc chưa tròn 60 tuổi. Sẽ chỉ thấy một Xuân Hoài ốm đau để rồi đồng cảm, sẻ chia và khâm phục ý chí, nghị lực của ông từ một ánh mắt, một nụ cười, một cái bắt tay mà không biết được những suy tưởng của ông tọa ở đâu. Những câu thơ ông viết trên giường bệnh mới cho ta thấy rõ ra một cách chân thực ông đang sống như thế nào. Tôi tin, người từng quen biết Xuân Hoài sẽ rưng rưng khi đọc:

“Viết thư tay không cầm được bút

Điện thoại nói chẳng nên lời

Lối đi quen trở thành mất hút

Lâu rồi, nhớ lắm bạn bè ơi.”

sẽ nhói đau trong lòng khi nghe ông thiết tha:

“ Bạn bè từ bao thủơ ?

Bỗng dưng thành xa xôi

 Thành người trong cõi nhớ/

Ai đó đừng quên tôi”.

Ông viết về người vợ tảo tần, thủy chung:

“ Không nói hết, tuổi già anh lâm bệnh

Em trở thành thầy thuốc chăm nom

Thành thư ký đọc nghe và ghi chép

 Cho thơ anh trên báo vẫn còn”.

Và ông đinh ninh:

“ Nhưng không sao một tình yêu lớn

Sẽ đi vào ký ức các con.”

Thế nhưng nỗi đau ngập tràn, nỗi đau se sắt thì không giấu được trong thơ:

“ Anh bảo em đừng khóc

 Nhưng anh nước mắt tràn

Thương em nuôi các con vất vả

 Năm năm nuôi mẹ chồng bệnh tật

Giờ chẳng lẽ trời bắt lại nuôi anh

Em nói trong bình thản dịu làn

anh yên tâm đáy là bổn phận đàn bà

 Anh nghe mà tê tái thịt da”

 

Một số thi phẩm in riêng và in chung của nhà thơ

     Mười hai tập thơ in trong khoảng thời gian 1971 đến 2006, với mảng thơ viết về quê hương, mảng thơ viết về tình yêu, mảng thơ viết về cuộc sống đổi mới hôm nay … đây đó còn nhận ra những đan xen chất thi sỹ và tính quan chức, đến tập Người trong cõi nhớ viết sau ngay nghỉ hưu, viết khi lâm bệnh, xuyên suốt, bao trùm là những suy ngẫm về kiếp người với một giọng thơ buồn bã giữa sự trống rỗng, đắng cay.

      Tôi đã cùng ông đi qua hơn ba mươi năm trên một con đường văn nghệ tỉnh lẻ quanh co, không ít khúc khủy, gập ghềnh, nóng, lạnh cho đến tận ngày mồng 8 tháng 3 năm 2006, tôi vừa khóc vừa đọc điếu văn tiễn ông về cõi vĩnh hằng.  Bấy giờ và mãi sau này trong tâm trí tôi, ông đang ở kề bên, ông không  đi đâu cả, ông vẫn ở lại với nhiều người và đang kể với các thế hệ về bao nỗi nơi cõi nhân gian …

                                                                            2006

Đ.B

 

. . . . .
Loading the player...