25-09-2016 - 11:07

Nhà thơ Lê Duy Phương- Quan chức và thi ca

Khi tôi viết xong những dòng này thì nghe tin nhà thơ Lê Duy Phương bị trọng bệnh đang nằm điều trị ở Bệnh viện Việt-Xô, hàng ngày hàng giờ, hàng phút, hàng giây chống chọi với cái chết. ..Giờ đây, tôi tin nhiều người sẽ thảng thốt: số phận đừng cay nghiệt với ông nữa để ông qua cơn vật vã mà chơi nhởi cùng bè bạn văn chương, để được“ mãi mãi ở với Thơ”. ( Nhà văn Đức Ban )

                LÊ DUY PHƯƠNG -  QUAN CHỨC VÀ THI CA
                                                                         Đức Ban
 

     Sau những năm lận đận, mệt nhoài vì những ràng buộc vô hình, tôi ra khỏi làng, gia nhập TNXP. Chúng tôi dàn đá giăm, rải nhựa đường di tu Q.L.1 trồi trụt, nham nhở vì chiến tranh. Một hôm, người đưa thư chuyển cho tôi một quyển sổ giấy trắng kèm mấy dòng chữ của Lê Duy Phương đề tặng. Ông viết là ông đang công tác ở Kiên Giang, đọc truyện ngắn Khói xanh của tôi in trên Văn nghệ Giải phóng thấy hay, có phong vị riêng… Tôi nhớ là lúc ấy lòng tôi rưng rưng. Lần đầu tiên trong đời, dù bấy giờ đã trên hai mươi tuổi, tôi mới được nhận lời chúc mừng của một người mới chỉ biết tên từ bài thơ “Nơi giấu xe” đạt giải Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1973.
 Hai năm sau, tôi mới gặp mặt Lê Duy Phương. Ông là một trong số ít các nhà thơ thời chống Mỹ ở Hà Tĩnh: Xuân Hoài, Vũ Duy Thông, Nghiêm Đa Văn, Duy Thảo, Nguyễn Quốc Anh, Trần Quốc Anh, Trần Hậu Tân, Hà Quảng, Phan Duy Đồng …những người có danh với những tập thơ dày, mỏng in trên giấy Việt Trì sâm sẫm. Đọc thơ họ, tôi cứ có cảm giác, ngoài sự chân thành dễ nhận thấy, mình chẳng thể nào thấu hiểu được những kiêu hãnh, những tiếng ca vui bất tận được biểu đạt bằng ngôn ngữ. 
 Rồi những khó khăn, những thách thức thời hậu chiến trở nên hiện hữu: thiếu thốn, nghèo đói, bất công len lách vào khắp nơi. Những  đắm say, náo nức sau chiến thắng 1975 thưa vắng dần trong thơ, có chăng cũng trở nên trầm tĩnh hơn. Thơ Lê Duy Phương từ: Ngụy trang cành lá ai che/ Mà xanh xanh mãi đoàn xe không cùng/ Tiếng thơ vang giữa bão bùng                          (Nhớ Kỳ Anh),  đến: “Anh nằm trong mộ đá/ Không cây cao bóng cả/Nghĩa trang phơi giữa đồng…/Ôi nén nhang cắm xuống/ khói trắng bay lên trời… đến: “Nước mắt mẹ cạn rồi/ Tháng năm cay nghiệt quá (Mẹ), chắc ông đã đi qua một chặng đường dài gập ghềnh của suy tư, thức nhận… 


Nhà thơ Lê Duy Phương ( hàng thứ hai, đầu cùng bên phải) cùng giới văn nghệ sĩ Hà Tĩnh
chụp ảnh chung với Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Xuân Linh và nhà văn Nguyễn Đình Thi

Có lần tôi tự hỏi, làm sao một Lê Duy Phương, ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Vinh, Tỉnh ủy viên, rồi Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh, quyền uy và đủ đầy trong cuộc sống lại có thể viết ra những câu thơ ứa nước mắt như thế. Bởi lẽ, tôi nghĩ, chức phận làm quan không liên quan đến thơ, thậm chí, sự khắc nghiệt, nghiêm ngặt của nó còn trái ngược với công việc sáng tạo ra thơ. Ông phải là người lý trí, rạch ròi mới đảm đương được công việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư bộn bề, phức tạp và đầy cám dỗ, giữa ngổn ngang các cơ chế, chính sách, nghị quyết, chỉ thị. Ông lại phải là người duy cảm, trăn trở trước thân phận con người giữa cuộc đời đầy bất trắc mới làm được thơ. Tôi đọc: Cô ta kể rằng: trên giàn giáo đến chín giờ là chóng mặt/ thương thương quá nghe đến rơi nước mắt…
hay:
Mẹ ngắm con trai của mẹ/ sinh năm 1953/mất năm 1971/mẹ ngắm con gái của mẹ/ sinh năm1954/mất năm 1972/mẹ ngắm chồng của mẹ/ sinh năm 1925/ mất năm 1968/ và chúng tôi ngắm mẹ/ trào nước nước mắt …          (Trường ca nước mắt);
và:
Nhớ mẹ đồng tiền rách/Mớ rau chiều ôi ôi/Mẹ mua về nuôi lợn/ngắt ngọn lành nuôi tôi/nước mắt mẹ cạn rồi/ tháng năm cay nghiệt quá (Mẹ)…
Bỗng nghĩ, những câu thơ ấy đã che mờ Lê Duy Phương quan chức, quyền uy để thấy một Lê Duy Phương trầm lặng, chầm chậm đi giữa bao nỗi nhân gian.
Một ngày mưa phùn nào đó, ông và vợ ông tìm đến nhà tôi. Gọi là nhà nhưng thực ra chỉ một căn phòng 15 mét vuông trong khu tập thể của Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh xập sệ, vẳng vẻ và ẩm ướt. Hôm ấy, ông cứ nhắc đi nhắc lại câu thơ ông viết từ hồi nào: Chức tước như khách đến rồi đi/ Còn Thơ mãi mãi với tôi suốt đời. Tôi nghe và ngay đó nhận ra mình đã có nhầm lẫn. Lâu nay, tôi đã đánh đồng phẩm chất thi ca với những phẩm tính quan chức trong ông. Ông nhìn bốn phía chung quanh căn phòng trống trải, bất kỳ một vật dụng nào, một hình thù nào cũng rơm rớm sự nghèo khó. Im lặng một lúc rồi ông nói: “Làm sao để có một chỗ ở tử tế ?”. Ông hỏi như không phải hỏi tôi. Tôi hiểu nỗi day dứt của ông trước những gì ông nhìn thấy.
Sau ngày tái lập tỉnh Hà Tĩnh, năm 1991, một dàn tác giả trẻ xuất hiện tiếp nối thế hệ thơ chống Mỹ tạo thành một đội ngũ làm thơ khá đông đảo quây quần quanh Hội Văn học, nghệ thuật tỉnh. Thời ấy và cả về sau này, bao nhiêu người làm thơ thì bấy nhiêu bổn phận công chức ăn lương nhà nước. Ông vẫn là người đi nhiều, quay ngang, dọc trong các quan hệ chính trị, quan hệ hành chính. Ông giao tiếp với cả Ủy viên Bộ chính trị, Thủ tướng Chính phủ, các chính khách ngoại giao. Ông giao lưu với giới thương nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, bạn bè văn chương, nhà giáo, học sinh... Ông có mặt ở nhiều nơi, làm nhiều thơ. Thơ cho người lớn, thơ cho các em thiếu nhi, thơ ngắn, thơ dài, trường ca. Ông vẫn làm quan, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư - cái Sở to nhất, nhì tỉnh về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thời ấy và mọi thời, luôn có người làm quan muốn làm thơ để giãi bày cõi lòng, lại có loại người làm quan, mượn thơ để đánh phấn danh quan…Những điều này đâu phải trong ai cũng rõ ràng, rành mạch; chúng xâm lấn nhau, chúng chống nhau, chúng trốn tìm nhau và đau đớn hơn là chúng lừa gạt chính họ. Lê Duy Phương  thuộc loại thứ nhất. Thế nên ông có bạn bè, có bạn đọc.


Nhà thơ Lê Duy Phương- Chủ nhiệm CLB thơ Nguyễn Công Trứ
tổ chức tọa đàm về nhà văn Nguyễn Thế Quang tại thành phố Vinh

Rồi đến ngưỡng sáu chục tuổi, ông nghỉ hưu. Khác nhiều kẻ, Lê Duy Phương là người nghỉ hưu một cách vui vẻ, thanh thản mà tôi được biết. Ông bảo, mình đã cởi áo quan trường, rủ bỏ hàng lô công việc hành chính, chính trị về với đời thường, tự do làm những việc gì mình thích kể cả yêu thương, hờn giận. Tôi nói, thế chẳng ra chốn quan trường, không được tự do yêu thương, hờn giận ư? Với vẻ hồn nhiên, ông cười, bảo được chứ, nhưng phải ngó trước, nhìn sau. Khác nhiều nhà thơ về hưu trong túng bấn, ông có nhà ở Hà Tĩnh, ở Vinh, ở Hà Nội, và dĩ nhiên không phái lo lắng chuyện áo cơm. Người ta thấy ông cưỡi xe máy chở vợ ra chợ Tỉnh lên siêu thị, tới câu lạc bộ thơ của Hội Văn nghệ, tới nhà bạn bè đàm đạo chuyện văn chương. Thấy ông xuất hiện ở Hà Nội dang díu với câu lạc bộ Thơ Nguyễn Công Trứ. Gặp ông chủ trì cuộc tọa đàm tiểu thuyết viết về Nguyễn Du. Lại thấy ông ở Hội thảo Truyện Kiều, gặp ông trong lễ phát giải thưởng văn học viết về đề tài Giao thông Vận tải .. Và gặp nhiều hơn tên ông trên sách, báo, thơ ông trong phòng đọc Thư viện.  Là chỗ thân tình tôi khá nhiều thơ ông, thơ đã in và thơ chưa in, cảm nhận ra một điều rằng, ông đang quay trở nhìn cuộc đời chung quanh và trăn trở đổi mới thơ:  Dằn vặt và chua chát, đau buồn và khát vọng: Em nhỏ ơi, em nhỏ quá đi thôi/ Trong mưa lũ em sống làm sao được/ Ngắm con trẻ thủ đô chơi đèn phá cỗ Nước mắt nhòa trang viết tối hôm nay  (Gửi) Và: Những người đi nuôi bệnh nhân/ thường là đàn bà/ tất bật và bụi bặm/ lặng lẽ đi trong hành lang ( Nuôi). Và: Phố xá/thưa dần/Những mớ rau thoi thóp/ Ngưới bán rau/ thở dài/ bước đi  (Chợ). Rồi:Cái gì của dân không biết/Chợ đây mới thật của dân/ Cứ đến mà xem thì rõ/Người ơi, dù chỉ đôi lần. (Chợ)


Tác giả đang đọc thơ tại Đêm thơ nhạc kỷ niệm danh nhân văn hóa Nguyễn Công Trứ tại Nghi Xuân

Lê Duy Phương đã tiễn khách, đang đón thơ:
Chức tước như khách đến rồi đi
Còn Thơ mãi mãi với tôi suốt đời.  
Khi tôi viết xong những dòng trên thì nghe tin ông bị trọng bệnh đang nằm điều trị ở Bệnh viện Việt-Xô, hàng ngày hàng giờ, hàng phút, hàng giây chống chọi với cái chết. Nghe chị Lâm, vợ ông kể qua điện thoại, tiếng nói đẫm nước mắt, rằng người ta đã phải khoan 3 lỗ trên con người ông. Một ở cổ để thở; một ở bụng để ăn, uống và một để bài tiết. Trời ơi! Sao đến nông nỗi này. Nhìn em bé trong mưa lũ, bà mẹ nơi góc chợ chiều, cô công nhân trên giàn giáo…ông đã phải nhỏ nước mắt mà kêu lên bao nhiêu lần trong thơ mình là “tháng năm cay nghiệt quá . Giờ đây tôi tin nhiều người sẽ thảng thốt: số phận đừng cay nghiệt với ông nữa để ông qua cơn vật vã mà chơi nhởi cùng bè bạn văn chương, để được“ mãi mãi ở với Thơ”./.

                                            Ngày 24 tháng 8- 2016
                                                                       Đ.B
. . . . .
Loading the player...