17-12-2021 - 10:45

Truyện ngắn “Cù lao Bình Sa” của tác giả Nguyễn Trung Tuyến

Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Cù lao Bình Sa” của tác giả Nguyễn Trung Tuyến

Tôi sang sông cùng các mẹ các chị đi chợ Lam Đình trở về Bình Sa. Từ tờ mờ sáng các mẹ các chị đã gồng gánh lên đò cùng các loại rau củ quả trồng được ngoài bãi bồi mang sang bán ở chợ Lam Đình. Bán xong, họ hối hả dục nhau lên đò. Trong thúng mủng gióng gánh lỉnh kỉnh là những gói quà: vài dăm cái bánh đa, gói bánh đúc, bánh đùm, bánh ú, bánh gai, gói kẹo bột… và còn mang về theo cả mùi vị rất riêng của chợ Lam Đình hãy còn vương trong tóc, trong áo quần, trong mồ hôi của họ. Các mẹ, các chị cười nói râm ran trên bến đò trưa đổ bóng. Tôi cũng vui theo và thầm nghĩ: - có lẽ phiên chợ này ai cũng bán được đắt hàng.

Các mẹ thì về nhà, tôi thì sang sông. Tôi hình dung thấy những đứa trẻ bên kia sông đang đợi mẹ ngoài ngõ. Chúng đón mẹ chợ về cùng những gói quà mẹ mua được từ tiền bán gánh rau mà chúng đã dậy sớm chăm chỉ giúp mẹ tỉa tót sắp xếp, so buộc, ngắm ngía từng nắm rau cho mẹ mang sang bên kia bán. Thấy tôi là khách mới của nhà đò, bác lái đò cùng các mẹ các chị vồn vã giúp tôi đưa hành lý lên đò. Chuyến đò về, hàng họ chẳng có gì nhiều, chỉ có người đi chợ về cùng vài người khách bên này quá giang sang Bình Sa.

Con đò quay mũi khoan thai nhẹ nhõm. Sóng gợn nhẹ hai bên mạn đò rì rầm như thể sông nói chuyện với mái chèo, mái chèo nói chuyện với sóng, sóng nói chuyện với con đò,… tâm sự sóng nước hòa với buồn vui của những chuyến đò ngang cứ thế triền miên, triền miên.

- Cô sang Bình Sa thăm nhà ai bên đó? - Một mẹ ngắm nhìn tôi rồi thân thiện hỏi.

- Dạ! Cháu sang Bình Sa dạy học ạ!

Chuyến đò hôm ấy có thêm cô giáo tuổi mới đôi mươi có nụ cười hiền lành xinh đẹp, trắng trẻo tinh thơm làm cho ai cũng vui, đến cả dòng sông cũng tươi vui lấp lánh.

Một chị nói với tôi vừa ngỏ ý chia vui với trường làng cù lao mình từ nay có thêm cô giáo mới lại có ý như là giải bày để tôi thông cảm cho hoàn cảnh quê nghèo của chị:

- Vui thật! Thế là trường Bình Sa mình lại có thêm cô giáo mới! Các cháu sẽ vui lắm đấy nhé! Mà bên này khổ lắm chứ không được như bên thành phố đâu cô ạ!

Tôi thấu hiểu. Cười vui với chị:

- Dạ! Chị!!!...

Trên đò nhìn sang Bình Sa. Xa kia, con sông Cả sau khi vượt qua hai dãy núi đôi bờ nhô ra làm lòng nó thắt lại thì đến quãng Bến phà II, dòng sông trở nên mênh mang. Cách Nhà máy đóng tàu một quãng, con sông đột ngột xòe ra rẽ làm hai nhánh ôm lấy cù lao Bình Sa. Cù lao Bình Sa giống như một giọt nước lớn nhỏ giọt từ cửa biển ngược lên. Đầu nguồn phình to rồi thu nhỏ dần về phía hạ lưu. Đuôi của “giọt nước” là bãi bồi thấp thoáng chìm nổi giữa hai nhánh sông hợp lưu tạo dáng cho Bình Sa thuôn dài ra rồi nhấn chìm xuống giữa mênh mông sóng nước.

Đến quãng dòng nước chảy xiết, bác lái khéo léo lựa mái chèo cho đò đi bát. Nước réo ồ ồ, sóng bắn lên ràn rạt hết mạn đò này sang mạn đò kia.

Bác an ủi mọi người:

- Một quãng nữa thôi! Dòng lặng đã trước mặt kia rồi!

Rồi bác miết mạnh mái chèo vẽ liên tiếp những đường cong mạnh mẽ cuộn sóng khiến con đò rung lên rồi bất chợt nó nhẹ nhàng đi vào dòng nước lặng.

Càng gần bờ, cảnh cù lao Bình Sa càng hiện lên rõ nét.

Nhìn sang Bình Sa, tôi chợt nhớ ngày ấu thơ chú thường kể cho tôi về vẻ đẹp của Nghi Xuân. Khi xưa danh sĩ Bùi Dương Lịch qua đây đã phát hiện ra “Nghi Xuân bát cảnh” thì trước mắt tôi giờ đây là một trong tám cảnh đẹp đó - bức tranh “quần mộc bình sa” thanh bình xanh mát. Lời chú kể ngày nào đồng hiện với lời thơ cổ ngân lên mênh mang trong lòng tôi.

Đò càng gần Bình Sa càng có cảm giác như mình cũng hòa vào vẻ hồn riêng của cù lao xanh lặng lẽ êm đềm đang hiện dần ra ở phía trước. Ý nghĩ:- từ nay tôi sẽ ở lại cùng với các em nhỏ, với cù lao này khiến cho dù mới lần đầu tiên về Bình Sa mà tôi đã cảm thấy gần gũi yêu thương đến lạ.

Thế nhưng, đâu phải là chuyến ngao du sơn thủy mà là chuyến sang sông nghiêm túc, ngày  tôi đến nhiệm sở nhận công tác bắt đầu nghề dạy học. Lại trở lại tự đối thoại với tâm tư, bao câu hỏi lục vấn ngổn ngang cứ đặt ra mà tôi chỉ có thể lý giải được  khi tôi cùng sống với các em nhỏ Bình Sa trong những tháng năm dài sắp tới.

Tôi tự an ủi: - Yên tâm đi! Mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi!

Đang chìm trong suy tưởng thì các mẹ dục:

- Cô ơi! Chuẩn bị xuống bến rồi!

Bác chèo đò cong người cắm ngọn sào xuống bùn non. Bụng con đò chạm bờ kêu lên sàn sạt vừa bí ẩn vừa náo nức niềm vui cập bến. Con đò quay đuôi rồi khựng lại, mũi hướng ra mặt sông. Nhẫn nại, kiêu hãnh.

Trên bờ, mấy người khách quá giang đã xắn quần đợi sẵn.

Trên đò, các mẹ các chị cố ý nhường tôi lên bờ trước. Dục tôi:

- Cô xuống đò đi!

Như chợt tỉnh, tôi lí nhí:

- Dạ! Các mẹ dọn dẹp đồ đạc gióng gánh vội vã giúp tôi chuyển cái xe đạp, chiếc vali cùng mấy thứ linh tinh xuống bến. Tôi xắn quần lội theo.

- Cô cứ đi theo con đường này đến ngã ba thì rẽ phải. Chịu khó lội qua ba cái lạch cạn nữa rồi thấy một cây đa to thì đó là trường. Cô nhé!

Tôi buộc hành lý lên xe lui cui dắt xe đạp đi theo con đường đến trường tiểu học Bình Sa.

Thầm cảm ơn bác lái đò, cảm ơn các mẹ các chị đã giúp tôi quá giang lại còn chỉ đường cho tôi về trường nữa. Từ đó tôi gắn bó với Bình Sa,  với các các em nhỏ suốt bấy năm cùng bao kỷ niệm buồn vui, sướng khổ, yêu thương, chia sẻ.

Ngày đó tuy không có ý định lưu giữ chuyện cũ nhưng chuyến qua sông thật là đẹp ấy thì tôi vẫn nhớ mãi.

*

Tôi chủ nhiệm lớp 1. Vì trường mỗi khối chỉ có 1 lớp nên lớp 1cứ gọi là lớp 1 thôi chứ không có 1A, 1B, hay 1C… gì cả. Cù lao trên sông với mấy trăm hộ dân sinh sống nên học sinh đến lớp cũng ngần ấy các em nhỏ thôi. Ban đầu, lớp 1 của tôi có 15 em. Trẻ sinh ra trên cù lao trôi nổi trên sông này có đôi mắt rất dễ thương. Có phải cuộc sống nơi đây cách biệt với cuộc sống náo nhiệt với thành phố Vinh bên bờ kia, lại gắn liền với cuộc mưu sinh vất vả trên sóng nước nhiều bất trắc của cha, mẹ. Sống bao đời trên doi đất mà lũ lụt có thể cuốn đi khi nào không biết này nên đôi mắt các em buồn buồn, hiền lành, dễ thương quá!

Tôi tự biết mình phải làm gì cho những đôi mắt ấy.

Hưởng ứng cuộc vận động “toàn dân đưa trẻ đến trường” tất cả giáo viên đều “đi từng ngõ gõ từng nhà” để đón các cháu đi học.

Thế rồi tôi gặp được Hoài Thương.

Một buổi chiều, tôi tìm đến được nhà em.

Căn nhà nhỏ lợp bằng bổi nằm đơn độc ở cuối bãi bồi.

Bổi là những cây cói bị loại ra sau khi người ta chọn lấy những thân cói dài đủ kích cỡ dùng để dệt chiếu. Sau mùa cắt cói, trên các ruộng cói dưới nắng hè khô cháy, bổi rạp xuống ngổn ngang từng đám. Chúng chờ nước lên nổi theo con nước bồng bềnh rồi lặng lẽ trôi ra cửa biển . Bổi không dùng được vào việc gì đáng kể, thảng hoặc ai đó lấy về tấp cho mái nhà.

Trong căn nhà nhỏ xù lên như lưng gà mái ấp, tôi nắm tay Hoài Thương hỏi:

- Mẹ của em đâu?

Em trả lời:

- Đi bắt cáy. Tí nữa mẹ về.

Tôi ngồi nán đợi chị về. Nhìn em nhỏ, chạnh nghĩ về những con cáy, lòng nao nao chợt nhớ nơi miền sông nước này có câu ca dao:

                            “Cáy biết thân cáy hôi

                       Cáy ăn một chỗ cáy ngồi một nơi”

Để bắt được cáy, ở đây người ta dùng liềm cắt cả đám cói rộng, cắt cói theo kiểu bao vây. Giữa đám cói đào một hố sâu, cáy giật lùi theo lưỡi liềm người cắt cói rồi rơi xuống hố. Nói rằng cáy hôi nhưng mắm cáy thì rất ngon, vị thơm chua đặc biệt của nó có thể chinh phục được bất cứ ai kể cả người khảnh ăn nhất.

Xẫm tối, chị Thoa về. Người chị ướt sũng, lấm bùn, ngạc nhiên thấy trong nhà, bên đứa con là cô giáo đẹp xinh trắng trẻo nên chị không dấu được mặc cảm, lúng túng.

Tôi chủ động vui vẻ chào chị.

Chào hỏi nhau vồi vội, chị rửa ráy qua loa rồi ra gặp tôi. Trong bóng chiều, tôi vẫn nhận ra chị là người phụ nữ đẹp, vẻ đẹp khỏe mạnh của người con gái sông nước có đôi mắt buồn.

Tôi nói với chị mục đích đến với mẹ con chị là vận động Hoài Thương đi học.

Chị từ chối:

- Tôi không cho cháu đi học đâu! Trong giấy khai sinh, cháu không có cha, cô ạ!

Mãi đến khuya tôi chia tay chị, mang theo nỗi niềm băn khoăn không biết chị Thoa có cho con đi học không.

*

Đêm ấy chị kể tôi nghe nỗi buồn của người con gái bãi bồi tình cờ gặp anh thủy thủ tàu rà bom mìn trên sông của chị.

Chị tình cờ gặp anh vào một buổi trưa trên đồng hoang. Chị thì đi cắt cói, anh thì đi khảo sát địa hình để rà phá thủy lôi từ tính, bom từ trường dưới lòng sông.

Đang dỡ cơm mang theo để ăn trưa thì chị bất ngờ thấy anh lừng lững ngay trước mặt. Trong đôi mắt trìu mến của anh nhìn chị tỏa ra một vầng ấm áp ôm lấy thân hình lấm lem của chị.

Chị lúng túng chưa kịp dấu nắm cơm của mình vào đâu thì anh đã đưa nắm cơm của anh ra. Anh vui vẻ nói:

- Không sao cô bé ạ! Cho anh cùng ngồi ăn chung với cho vui.

Nói rồi anh vội vã ôm về rất nhanh một ôm bổi lớn. Anh khéo léo và nhanh nhẹn rải bổi ra thành tấm mền phẳng đẹp rồi bày khẩu phần ăn của cả hai người lên. Buổi trưa trên đồng hoang của hai người cùng với bữa ăn bày ra thật ngon mắt - hai mo cau cơm mở xòe ra, một niêu cá bống rim khô thân mình vàng óng, một lưng mắm cáy, hai hộp thịt cừu khui nắp, một quả bầu khô đựng nước chè chị mang theo đặt bên cạnh chiếc bi đông đựng nước lọc pha vitaminC với đường của anh.

Vừa ăn, anh vừa kể cho chị nghe công việc anh và đồng đội đang vật lộn với quãng sông này.

Tiếp thức ăn, động viên chị ăn, anh nói với chị bằng cả tấm lòng thành thực:

- Em ăn đi! Ăn thật ngon vào nhé! Quả thật, chưa khi nào anh được ăn cá bống rim khô, mắm cáy ngon thế này! Bọn anh đi làm chỉ có thịt hộp nên ăn mãi cũng chán.

Anh nói chuyện hồn nhiên, chân thành khiến chị ngạc nhiên ngỡ như chị đã quen anh từ lâu lắm rồi. Chị nhìn anh ăn ngon lành, lòng vui vui, thầm nghĩ: “ Thật thế cơ à? Mà cá bống, mắm cáy thì chỉ mặn với hôi chua thôi chứ ngon nỗi gì chứ? Món kham khổ thường ngày của người quê phải đâu là cao lương mỹ vị chứ? Thế mà anh cũng khen! Nhưng không hiểu sao được nghe anh khen cũng vui. Thế thì anh ăn đi! Ăn thật nhiều anh nhé! Mấy món này ở nhà em ăn suốt đời không cũng hết được”. Chị ngoan ngoãn nhận thức ăn từ anh. Người con gái cù lao đang đói lần đầu tiên được ăn món đồ hộp thịt cừu có hương vị ngon ngọt thơm đến kỳ lạ từ bàn tay vạm vỡ của người đàn ông âu yếm chăm sóc, trong lòng dâng lên niềm cảm xúc khó tả.

Trên cánh đồng hoang, hoa cói trắng xám níu vào nhau rũ ngọn phơ phất hiu hiu. Con nước sắp lên rồi. Sóng vỗ lên dào dạt. Mấy con cáy bám theo từng thân cây cói chậm chạp nhích dần lên. Chúng nhẫn nại đo chừng con nước và giương đôi mắt tròn xoe nhìn hai người đang thủ thỉ với nhau như thể vừa tò mò lại vừa có ý canh chừng cái sự ồn ào tinh nghịch của con nước đang lên để cho hai người nói chuyện.

Anh gom những bó cói xanh dài óng ả mà sáng nay chị đã cắt và bó lại rồi xếp chúng đứng vây quanh để tỏa bóng râm, che chắn kín đáo cho tấm mền. Những bó cói trông như các vệ sĩ lặng lẽ đứng canh cho anh chị . Gió trên sông thổi nhẹ và ướt, mát hơn quạt hầu.

Bữa ăn của anh chị qua nhanh hơn một giấc mơ.

Ăn xong, họ nghiêng người bên nhau.

Anh kể cho chị nghe công việc anh cùng đơn vị công binh của anh đang vật lộn với quãng sông này.

Sắp tới sẽ xây một cây cầu lớn vượt sông. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho việc thi công, các anh phải phát hiện và rà phá bằng hết các quả bom, ngư lôi đang sót lại dưới lòng sông này.

Anh rất vui nói cho chị biết đơn vị anh vừa phát hiện thấy một chùm 6 quả bom đang dấu mình dưới đáy quãng sông trước mặt. Anh hồ hởi nói:

- Chiều nay bọn anh sẽ lặn xuống kiểm tra lại chúng lần cuối để chọn phương án rà phá sao cho thích hợp nhất. Xong việc rồi thì anh được nghỉ xả láng. May quá! Lúc này anh lại được gặp em, được ăn chung với em! Chiều nay anh lặn xuống sông sẽ mang theo thêm bao điều ý vị - Anh cười, hàm răng đều tắp trắng bóng dưới nắng trưa. Ngắm nhìn chị, anh xúc động, thầm thì: - Người con trai trước giờ ra trận bỗng nhiên được gặp cô gái bước ra từ cổ tích. Đúng là duyên tiền định cho mình gặp nhau em nhỉ!- Anh thành thật hỏi chị: - Em đi làm một mình thôi à? Em đã có chồng chưa?

Chị thủ thỉ trả lời:

- Dạ, vì cói dùng để dệt chiếu nên ở đây đàn ông họ không làm đâu! Mùa thu hoạch cói là công việc của đàn bà con gái thôi. Em đi làm từ sáng, chiều tối mới về nhà - Chị ấp úng: - Em chưa có chồng. Mà Bình Sa thì cực lắm... nên có ai lấy con gái Bình Sa làm vợ đâu anh?!!!...

Anh dang đôi cánh tay vạm vỡ ôm choàng chị vào vồng ngực săn chắc cuồn cuộn. Anh hôn lên đôi mắt chị. Anh thì thào ngắt quãng bởi hơi thở từ lồng ngực phập phồng đang phả ra đốt nóng ran làm thân thể anh run bắn lên:

- Anh xin em được là chồng của em! Chiều nay…anh cùng anh em làm việc dưới lòng sông… Xong việc rà phá bom này anh sẽ về nhà em… xin bố mẹ em cho anh được làm con rể của Bình Sa…! Em ơi!!!... Em biết không? Ngay giây phút đầu gặp em anh đã yêu em đến nhường nào! Em không từ chối anh! Em nhé!...

Chị lã mềm trong hơi thở mạnh mẽ của anh.

Chị tin lời anh nói hơn cả tin vào trái tim nhân hậu sáng trong chân thật của chị…

Bỗng từ chiếc xà lan giữa sông vang lên một tiếng súng lệnh.

Nghe tiếng súng nổ, anh giật mình buông chị ra. Anh nói vội vã:

- Pháo lệnh báo kia rồi! Công việc chiều nay của bọn anh đã sắp bắt đầu. Mọi người bây giờ chắc đang chờ anh! Anh phải về xà lan ngay giờ đây!

Anh hôn, thì thầm dặn chị:

- Xong việc anh sẽ về với em ngay. Trưa mai em đợi anh ở đây. Ta cùng về nhà! Vợ nhé!!!

Nói rồi anh lao nhanh xuống dòng sông, sải đôi cánh tay lực lưỡng rẽ nước bơi về phía con tàu. Khối sắt ngoài kia cũng đang bồn chồn đợi anh trở lại. Chị chưa kịp nói với anh câu nào thì anh đã như con cá kình quẫy nước trắng xóa lao rất nhanh ra giữa dòng sông rồi.

Anh xa dần, xa dần. Chị bật khóc.

Từ hôm đó, ngày nào chị cũng ra đồng hoang đợi anh quay trở lại.

Anh không bao giờ trở về nữa.

Trục vớt xong 6 quả bom từ đáy sông lên thì đồng đội làm lễ truy điệu cho ba chiến sĩ công binh đã hy sinh khi lặn dò phá bom vào buổi chiều hôm ấy. Anh cùng hai người chiến sĩ ấy vừa hoàn thành nhiệm vụ dưới đáy sông thì một dòng xoáy ngầm bất ngờ vồ đến cuốn lấy rồi đập các anh vào vực đá.

Nhưng chị vẫn không tin anh đã hy sinh, chị đinh nình rồi anh sẽ bơi về, anh sẽ cho chị niềm hạnh phúc bất ngờ giống như lần đầu chị gặp được anh. Với chị, bao giờ anh cũng kỳ diệu, mạnh mẽ và nhanh hơn lốc xoáy.

Chị chờ… rồi dựng căn nhà nhỏ trên đồng cói để nếu mùa hè anh bận việc mà chưa về được thì đến đêm đông khi anh bơi vào đã có căn nhà cho anh đỡ lạnh.

Cứ thế, căn nhà lợp bổi cùng chị theo năm tháng mòn mỏi anh đợi về. Đứa con của anh trong bụng chị lớn dần.

Căn nhà nhỏ bé phủ bằng bổi nằm cô lẻ ở cuối bãi bồi, ngõ hướng về bến phà cũ nay cách chân cầu mới khoảng non ngàn sải tay bơi. Hai mẹ con chị với căn nhà trên cánh đồng hoang lặng lẽ sống cùng với một niềm tin không lay chuyển, niềm tin không sức mạnh nào cướp đi được người chồng của chị.

Chia tay mẹ con chị, tôi an ủi:

- Em vẫn thấy anh đang sống trong lòng của mẹ con chị đấy chị ạ! Mới đó mà Hoài Thương đã đến tuổi đi học rồi. Biết con đến trường chắc anh sẽ vui lắm đấy! Còn giấy khai sinh? Chỉ là tờ giấy thôi! Sáng mai, em đón mẹ con chị trước cổng trường nhé! Giờ đã khuya rồi. Em phải về trường. Em chào chị!

Sáng hôm sau, tim tôi thắt lại khi thấy hai mẹ con ngập ngừng đứng dưới gốc cây đa ngoài sân trường như có ý chờ ai đó. Tôi chạy ào ra ôm chặt lấy Hoài Thương. Nắm bàn tay Hoài Thương bé bỏng, tôi và chị cùng lặng lẽ khóc.

       Nghi Xuân, những ngày đầu đông 2021

N.T.T

. . . . .
Loading the player...