Tạp chí Hồng Lĩnh số 228 trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Sau đêm mưa” của Nguyễn Thị Thúy Vân
Tháng Sáu bắt đầu bằng từng đợt nắng gắt kéo dài và những cơn gió Lào khô khốc. Bờ bãi khào khào trong gió nóng, những chân rạ vừa gặt trơ lại trên mặt ruộng thâm đen. Hàng tre cuối xóm Gò cựa vào nhau những cành gai góc và đọt lá lưa thưa như mái tóc xờ xạc.
Quá trưa, lão Xanh khập khiễng xách thùng sơn trữ nước rác xin từ quán bún ngoài đường lớn đi vào. Mấy ngày này, cái chân đau cứ tê buốt như có lửa đốt từ trong xương khiến lão càng khó khăn đi lại. Nắng xói trên đỉnh đầu, in cái bóng dặt dẹo lên mặt đường bê tông bỏng rát. Khuôn mặt khắc khổ của lão lấp ló dưới cái nón mê thâm. Cái dáng người gầy gò, nhỏ thó như bị thùng nước bún trì kéo thêm xiêu vẹo bên mặt đường.
Lão không phải dân gốc của xóm Gò mà quê đâu tận Thái Bình, thời trai trẻ theo người ta vào trong này lập nghiệp, lấy vợ rồi ở hẳn nơi mảnh đất ven biển đầy nắng gió. Trước, lão là thợ sơn, chuyên đi theo các nhóm thợ xây dựng để phục vụ các công trình. Có khi đi gần tháng mới về. Vợ lão ở nhà thế nào lại dây dưa với một anh phụ hồ trong xóm. Lão biết được, trong cơn điên giận đã chém một nhát vào bắp chân chị vợ. Dù chỉ bị phần mềm nhưng sau đận ấy, chị kinh hãi bỏ đi biệt tích. Thế là lão sống một mình. Nhưng nào đã yên, chỉ sau bốn năm kể từ khi vợ bỏ, lão bị ngã từ giàn giáo xuống, dập tủy khiến một chân cử động khó khăn. Từ đó, lão không thể trở lại nghiệp xưa, chỉ đành ở nhà trồng rau, nuôi gà và xin nước rác nuôi thêm vài con lợn.
Dân xóm Gò không mấy người ưa lão, cái cảm giác khi đứng trước một kẻ từng cầm dao chém người khiến người ta rờn rợn. Với lại, từ sau những vận hạn của cuộc đời, lão trở nên lầm lì, không bao giờ cười và chẳng thiết bắt chuyện với ai.
Ấy vậy mà căn nhà quạnh quẽ của lão bỗng nhiên một ngày lại vang tiếng trẻ con khóc, tiếng dỗ hát ầu ơ. Chẳng là chín năm về trước, lão nhặt được một đứa trẻ bị bỏ rơi ngoài gò. Sau nhiều ngày thông tin và chờ đợi nhưng chẳng thấy người nhà đứa trẻ quay lại đón, lão xin chính quyền được nhận nuôi. Lúc đầu, người ta cũng ái ngại: lão có tuổi, là đàn ông, lại độc thân, lại tàn tật. Nhưng khi nhìn vào đôi mắt khô như hai hốc đá bỗng ngân ngấn nước và lời nói khẩn khoản, run run: “Xin các bác, tôi nuôi được, dẫu sao tôi cũng là người nhặt được thằng bé”, người ta phải mủi lòng. Thế là kể từ ngày đó, dân xóm Gò nghe thấy lão hát ru, lão đùa giỡn, lão tất bật như một người mẹ trẻ. Lão càng hăng làm việc, bất kể sự hành hạ của cái chân đau. Lão xin làm thêm việc thu gom rác cho cả xóm Gò, nhưng không gom rác mỗi tuần một lần như người ta mà đều đặn ba lần, dù mưa hay nắng. Mỗi lần gom rác, lão cứ lục mở từng bao, tìm những mẩu sắt, những chai lọ nhựa có thể tái sử dụng bỏ riêng vào cái bị kẹp bên mình. Có khi, nhìn thấy lão loay hoay với mớ rác đã bốc mùi, ruồi nhặng bu vây mà nhiều người nhăn mặt: “Khiếp, bẩn thế cũng làm được!”. Thậm chí, những lần lão vào quán mua cháo cho thằng Gò, người ta còn né đi vì cảm giác mất ngon. Mặc kệ, lão không quan tâm, lão cũng chẳng vì thế mà buồn. Có thằng Gò rồi, lão buồn thế nào được, lão đang vô cùng hạnh phúc. Đôi khi người ta hạnh phúc chỉ đơn giản vì mọi thứ được bắt đầu với một trách nhiệm mới. Đó là lần đầu tiên lão được làm bố, được bồng bế ầu ơ một hình hài bé nhỏ với đôi mắt trong veo, hai má phúng phính mịn thơm như trái chín và cái miệng múm mím chốc lại chảy nước dãi xuống cằm. Chao ôi, không gì êm dịu bằng cảm giác được ôm ấp, trông nhìn một đứa trẻ, mà nhất là khi đứa trẻ ấy lại là con mình. Bên nó, lão không còn ý niệm về thời gian và những bội bạc, những tủi cực, những cô đơn hay đau đớn thể xác đã từng âm thầm chịu đựng biến đâu hết thảy, không còn chút mảy may.

Minh họa: VÂN TRẦN
Lão Xanh giữ rịt thằng Gò bên mình như người ta giữ của. Chỉ những lúc phải ra ngoài đi chợ, đi làm hay mua bán một thứ gì đó lão mới bế nó sang gửi chỗ vợ chồng bà giáo ở sát bên nhà. Lão vội vàng đi rồi lại vội vàng về như thể sợ không có lão, thằng bé sẽ không chịu được. Có lúc người xóm Gò quên mất lão có một chân tập tễnh bởi từ ngày nhận nuôi thằng bé, lão nhanh nhẹn, hoạt bát hẳn. Khuôn mặt u tối thường ngày cũng trở nên rạng rỡ, tươi vui, đôi mắt khô sâu ánh lên lấp lánh. Lão có thể đứng hàng giờ bế thằng bé trên tay để cho người ta cưng nựng, vuốt ve. Cũng có khi lão tíu tít hỏi chuyện và chăm chú lắng nghe mấy bà xóm Gò bày cách phòng sốt cho trẻ trước khi đi tiêm phòng theo lịch. Thậm chí khi có người khéo mồm khen: “Trông thằng bé giống bố y hệt” thì ngày đó lão vui như Tết. Thể nào đến xế chiều lão cũng sẽ mang cho nhà ấy đĩa lòng luộc nóng sốt mà lão đã chực mua sẵn ở nhà bà Nhung mổ lợn chiều. Chà, mấy miếng lòng ngon có đáng gì, người ta khen bố con lão là người ta cũng có lòng, cũng rất quan tâm. Vả, người ta có điêu đâu, thằng bé giống lão thật mà.
Ngày thằng Gò lên lớp Một, lão dành dụm mua cho nó cái xe đạp mới rồi chiều chiều dắt ra sân bóng của xóm để tập cho nó đi xe. Mặc cái chân tê buốt phải đi tập tễnh, lão cứ mê mải, hăng hái chạy theo thằng bé, hướng dẫn nó, cổ vũ nó và giữ cho chiếc xe được thăng bằng. Có lúc, không phải cái xe hay thằng Gò ngã mà chính lão bổ dúi dụi xuống sân, mặt mũi lấm lem đất khiến cho bọn trẻ con hiếu kì đứng xem quanh đó được phen ôm bụng mà cười.
Một buổi trưa, đang gò lưng xách nước rác về nhà, lão Xanh bỗng thấy mấy thằng bé trong xóm hớt hải chạy đến. Chúng vừa thở hổn hển vừa báo tin: “Nhanh lên…! Thằng Gò ngã… ao rồi”. Hồn vía lên mây, lão quẳng luôn thùng nước rác, chạy thẳng một mạch ra bờ ao cuối xóm rồi vừa hét gọi “Gò, con ơi!” vừa nhảy ùm xuống ao. Lúc chới với trong làn nước sâu, lão mới nhận ra cái chân đau không thể cử động theo ý mình khiến cho cả cái chân lành cũng bị chuột rút. Lão vừa vùng vẫy cố ngoi lên vừa thảng thốt đưa mắt kiếm thằng Gò. May có mấy thanh niên gần đó nhảy xuống kéo lão vào kịp. Lúc định thần lại, lão mới biết thằng Gò cũng đã được mấy anh ấy cứu lên trước đó. Từ sau cái hôm hãi hùng ấy lão quyết tâm tập bơi trở lại. Ngày trước, lúc chưa bị nạn khiến một chân thành tàn tật, lão cũng là hạng bơi cừ, nhưng giờ đây việc tập bơi với lão còn khó hơn cả đi bằng hai tay. Lão dùng phao tập cho cái chân đau quen cử động dần trong nước và dồn hết lực vào cái chân lành. Những ngày đầu, chân bị chuột rút quắn cả lại, đêm về cả người đau nhức, mỏi nhừ không thể nào ngủ được, lão cũng đã tính bỏ cuộc. Nhưng nghĩ đến nỗi sợ hãi đến mức ám ảnh khi nghe tin “thằng Gò ngã ao”, lão lại quyết tâm phải làm bằng được. Dần dà, lão tìm lại được cảm giác quen thuộc rồi bơi được như xưa. Khi đã vững vàng, lão bắt đầu tập bơi cho thằng Gò. Không ai bảo vệ được mình bằng chính mình tự làm việc ấy. Lão nghĩ thế, và nghĩ thêm: “Rồi cũng phải dạy cho thằng bé những kĩ năng cần thiết khác, nó không thể dựa dẫm vào một người tàn tật như mình”.
…
Tháng Sáu vẫn nắng và gió rát. Nắng quáng cả mắt, rót vào không gian một màu sánh mịn vàng ong. Gió Lào vẫn thông thốc quật phờ phạc cành lá. Ngồi trong nhà mà hơi nóng từ tường gạch, đường nhựa, đường bê tông phả vào hầm hập. Da mặt cứ phừng phừng như lên cơn sốt còn mồ hôi nhừa nhựa trong người khiến có cảm giác bức bối, bứt rứt vô cùng. Người ta thèm những cơn mưa.
Ấy vậy mà mưa thật. Mưa đêm. Đột ngột như cái quay lưng của người hờn dỗi. Vài giọt nước lớn lộp độp trên mái tôn rồi chỉ sau ít giây, mưa rào rạt, xối xả, mịt mù. Mưa trước, gió sau. Những cơn gió như cơn lốc cuốn thốc mọi thứ ném tung vào màn đêm đen đặc. Gió quật cành cây đập sàn sạt vào cửa sổ, hú gọi mưa rung chuyển bốn bề. Mưa tạt nước vào hiên nhà. Chớp rạch màn đêm, sáng lóa. Đất trời như đang trong một cơn giận dữ điên cuồng không cách gì kiềm chế.
Rồi mưa tạnh, chẳng biết từ lúc nào, chỉ thấy sáng mai cả không gian mát lạnh như buổi đầu đông. Người ta khoan khoái bước ra khỏi nhà, hít hà cái khí trời êm mượt. Vậy mà gương mặt lão Xanh sáng ấy lại xám xịt như trời động giông. Lão ngồi trơ ra trước hiên nhà, hai hốc mắt như hốc đá thẫn thờ nhìn vào thinh không hun hút. Thì ra đêm qua, mẹ thằng Gò về nhận con và đã xin đón nó đi. Từ ngày mẹ thằng bé liên lạc với lão và bày tỏ mong muốn nhận lại con, lão đã sống trong những ngày nơm nớp lo sợ và lão biết thế nào cũng có ngày này. Nhưng lão không nghĩ nó đến sớm vậy, lão chưa kịp chuẩn bị gì, lão cũng chưa quen cái cảm giác thiếu đi thằng bé. Trong cuộc đời lão, mọi thứ đến rồi đi, nhanh như cơn mưa giông tháng Sáu.
Dân xóm Gò thắc mắc sao lão lại dễ dàng đến thế, chẳng gì cũng mất công mất của nuôi thằng bé chín năm. Nhìn dáng người nhỏ thó của lão gò lại trong nỗi cô đơn, chịu đựng lặng thầm, người ta chép miệng: “Chả trách mà khổ. Mỗi khi gặp bất hạnh lại im như đá, chẳng chịu nói ra cho được nhẹ lòng”. Không biết nói ra lão có nhẹ lòng hay không nhưng đời người có nhiều cách để đối diện với nỗi đau, cứ trút ra bao điên cuồng, giận dữ như trận mưa đêm qua chắc gì sớm mai có được cái mát lành, thanh thản như bầu trời tháng Sáu.
N.T.T.V