28-05-2017 - 21:33

Truyện ngắn: Không khói hoàng hôn

Tạp chí Hồng Lĩnh số 129 giới thiệu bạn đọc truyện ngắn "Không khói hoàng hôn" của tác giả Tống Phú Sa.

 

Ông Thằn thò đầu qua ô cửa kính trên căn gác lửng, để gió thổi u u qua mặt. Cơn gió cuối mùa lạnh buốt tận xương nhưng lại cho ông cảm giác dễ chịu. Ơn trời, ông vẫn còn sống. Và, cũng quá may mắn khi ngôi nhà hẹp chiều ngang nhưng dài dòng dọc lại có một căn gác lửng, một ô cửa chót vót để ông được tự do, được trút bỏ muộn phiền.
Trời chuyển mưa lất phất. Mưa bụi giăng giăng trên những nóc nhà cao tầng. Tít đằng xa là những chấm xanh nhỏ, rất nhỏ. Ông đoán già đoán non, đấy là một cánh đồng. Rồi ông tự nhủ, không, nó là một nông trại trồng rau củ. Chiều nào ông cũng trốn lên căn gác, hướng tầm mắt về phía đó. Nó là khoảng trống duy nhất, là mảng xanh duy nhất trong thành phố sầm uất mà ông đang sống. Ông để mặc cho mưa kết thành những mảng nhỏ li ti trên mái tóc bạc trắng, lơ phơ. Đôi mắt mệt mỏi già nua của ông sáng bừng lên khi mảng xanh thu trọn trong tầm mắt!

*

Khi ông thức dậy, nhà cửa đã vắng trơn!
Con trai và con dâu ông làm việc trong công ty may mặc, đi làm xa gần bốn mươi km, đi và về bằng xe bus. Chúng không có ngày nghỉ. Một năm nghỉ đúng mười ngày cả tết âm và tết dương. Năm giờ sáng đã có mặt trên xe bus, chiều tám giờ tối mới về đến nhà. Đồ ăn uống cả ngày của ông đã được cô con dâu chuẩn bị.
Ông Thằn chậm chạp di chuyển về cuối hành lang. Hành lang dài hun hút và tối lù mù. Nhưng, ông không có khái niệm thắp đèn. Ông vào nhà vệ sinh, tỉ mỉ lau bộ răng giả bằng chiếc khăn bông màu xám. Sau khi lắp gọn ghẽ bộ răng vào chổ cũ, ông xoa nóng tay bằng dầu nóng, vỗ vỗ khuôn mặt đã nhăn nheo. Mọi việc ông cố tính làm thật chậm, thật chậm. Khi rời khỏi nhà vệ sinh, giở lồng bàn đậy bữa ăn sáng đặt trước sân nhà, đồng hồ mới chỉ con số bảy. Vị chi ông phải chờ, phải ngồi không gần mười ba giờ đồng hồ mới có người mở cửa.
Con dâu ông là đứa tử tế. Không được ăn học như con người ta, nhưng mọi phép tắc lễ nghĩa trong nhà, con dâu ông xử sự không chê vào đâu được. Thằng con trai ông cục tính. Mỗi khi thấy chồng xấm xắng, cô con dâu lại nhẹ nhàng xoa xoa cục u nỗi trên vai ông, nói:
- Nội gánh phân gánh mạ nuôi anh,  nổi u ụ vai đây này!
Ông cười. Ông không giận được chúng nó. Cũng như mười ba năm về trước, ông không thể từ chối con trai, con dâu một chuyện động trời.
Chuyện đó, cái chuyện động trời ghê gớm đó, ông chưa từng nghĩ đến!
Ấy vậy mà ông lại xuôi. Ông buông bỏ, ông phó mặc vì nghĩ đến con, đến cháu.
Mười ba năm trước, ông còn vậm vạp, chân tay  săn mỡ. Đám trai làng làm ruộng còn theo ông đứt đuôi. Vợ mất, anh chàng Thằn dằn bụng ở vậy nuôi con. Thằng con trai hết nghĩa vụ quân sự, vào Nam làm công nhân. Nó có gia đình và một con vợ người Nam. Ngày con dâu gần ở cữ, hai đứa về quê, nhất quyết mời ông vào trong đó để tiện cho cả hai. Ông kiên quyết từ chối. Mà, đã bao giờ ông có ý nghĩ bỏ hết nơi đây? Ngoài triền núi là nơi cha, mẹ ông nằm, là nơi vợ ông đã chờ ông bao nhiêu năm. Lối ngõ có hai hàng cây man hão in dấu chân tuổi thơ của ông. Những đứa bạn chân trần ngày ấy giờ không còn ai. Nhưng, mỗi lần khua lá xào xạc, ông lại như thấy hiện về tất cả…Thằng Thành thấp lũn đũn, da bóng sạm nhưng chơi đánh đáo rất cừ. Mỗi lần vung trì, thế nào cũng ấp trúng những đồng xu bóng nước. Cái Mơ, cái Gái khéo tay. Chụm ba hòn gạch và một chiếc nồi vỡ trên lối ngõ rợp bóng lá nhà Thằn là có cái để ăn. Khi thì lạc rang, ngô rang. Khi thì khoai luộc, sắn nướng. Có bận, cả hội bọc đất nướng cá, nướng ễnh ương… Đói, nên cái gì cũng ngon. Mùi vị ấy đến bây giờ ông vẫn không quên nổi.
Mỗi ngày ông gom lá không biết đến bao nhiêu lần. Ông thấy bà Thằn đội nón lá có chiếc quai màu hồng phấn. Đôi gò má bà ửng đỏ, mồ hôi rịn lấm tấm sau lần áo mỏng. Rồi bà cười khanh khách như trẻ nít. Ông ngẩn người nhìn dáng bà khuất sau ụ rơm.
Mà, làm sao ông đi cho được! Ngôi nhà này, lối ngõ này, bầu không khí này gắn chặt với cuộc đời gian truân, khó nhọc của ông. Bà Thằn mất khi ông mới ba mươi ba tuổi. Cái tuổi ăn xiêu vò, xiêu máng. Cái tuổi ngùn ngụt lửa. Vậy mà ông phải dằn nó xuống. Dằn xuống để nuôi con! Ông làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Treo hái là ông bỏ trúm, bỏ câu đày. Đêm về đan rổ rá đến gà gáy mới lên giường. Bao nhiêu năm làm công việc ấy, ngồi đúng chỗ ấy nên cột nhà hằn nguyên cả tấm lưng có cục u to như bắp chuối của ông. Gái làng khúc khích cười khi ông chạng chân đong từng bát ô tô gạo. Ngày ấy gạo không cân như bây giờ. Chợ quê bán đủ mọi thứ, trong đó có gạo. Mỗi phiên chợ chính, để có tiền tiêu vặt, người ta lại xớt ra một vài bát gạo để bán. Gạo được đong bằng bát sắt to, thường được gọi là bát ô tô. Do vậy, tuỳ theo cách đong của từng người mà số gạo có sự chênh lệch. Miếng cơm manh áo của hai cha con buộc Thán phải học. Những khi rảnh, Thán học đong gạo. Đong làm sao ngoạm được cả phần trên của bát !
Ôi chao là kỉ niệm! Càng cơ hàn càng nhớ, càng không thể dứt ra! Có thể một ngày ông không uống ngụm rượu nào, nhưng không thể không vòng qua cái chợ có đủ thứ quà quê, đủ câu chuyện quê và vô vàn mảnh đời cơ cực. Người ta mời ông mua, người ta biếu ông một miếng trầu có quệt vôi tôi trắng đục. Người ta khen ông dạo này da dẻ hồng hào. Có chị chép chép miệng, nói như là cố ý để ông nghe “Người đâu mà thích thế không biết! Chẳng bù cho lão chồng nhà này…!”
Với ông, ngày trôi qua thật vội. Lúc nào ông cũng gấp gáp, vội vã. Khi chiều đóng sập ở dãy núi sau nhà, khi sương đã bắt đầu nhuốm lạnh, ông nhóm lá và châm lửa đốt. Mùi lá ấm, cay nồng. Khói từng bụm loang tan trên những tán cây trước ngõ. Đó là khoảnh khắc nhiều tâm trạng nhất trong ngày của ông. Và, đó cũng là giây phút duy nhất ông giành cho mình. Sau phút giây bần thần ấy, ông vội vã đi vào nhà. Vội vã châm đèn. Vội vã cho lợn ăn, đóng chuồng gà. Vội vã dọn cơm ra chiếc mươn đã bóng nước.
Sau bận ấy, thằng con ông không còn nói gì về chuyện ông bán nhà cửa theo chúng vào Nam. Đùng một cái, thằng cháu hai tuổi của ông bị thương hàn không cứu được. Là vì chúng nghèo. Nhà trọ mười sáu mét vuông thấp đũn, nắng thì nóng chảy mỡ, đông thì lạnh thấu da. Thằng con trai kêu ông cố chấp, báu chi miếng đất heo hút đó mà bám riết không tha !


Minh họa: BÌNH MAI

Lời  thằng con như dao, cứa vào tim ông rịn máu. Ông đã cố kìm giữ cảm xúc, cố quên tất cả để vì con mà sống ! Ngần ấy năm ông đã làm được. Bây giờ, ông đã gần đất xa trời, còn gì nữa đâu mà ông tiếc nuối!
Ông đã xuôi. Ông buông bỏ. Năm ngày sau khi kêu bán vườn, bán nhà, người ta chồng tiền không thiếu một xu. Ông như người không trọng lượng. Hoang hoải lên chuyến tàu thống nhất lúc mười hai giờ đêm. Năm đó ông sáu mươi hai tuổi!

*

Căn gác xép là nơi đặt bàn thờ bà Thằn, mẹ của con trai ông!
Ngôi nhà ống dài hun hút, không cửa sổ đóng kín cả ngày lẫn đêm. Nó được xây bằng tiền bán đất, bán nhà cộng với số tiền tiết kiệm của ông và vợ chồng thằng con trai. Ngôi nhà không có sân, chỉ chừa khoảng hai mét để làm nơi phơi quần áo. Sau một chuỗi công việc mà ông Thằn cố làm thật chậm rãi, ông ra ngồi trước hiên nhà, ngồi thế cho đến khi đứng bóng thì giở cặp lồng cơm ra ăn.
Ngày được lập trình đúng như thế. Cô đơn. Buồn chán. Và, chất đầy nỗi nhớ nhung!
Ôi chao là ông nhớ! Nhớ ngôi nhà ấy, lối ngõ ấy. Nhớ phiên chợ chiều, phiên chợ phiên. Nhớ mùi khói nồng cay. Nhớ mùi bùn ngai ngái. Nhưng, không bao giờ ông về được nơi đó, chẳng bao gời ông về nỗi nữa rồi! Chỉ có khi ông chết đi .
Nhưng, ông chết đi rồi, các con ông cũng không thể đưa ông về! Đưa ông về  sao được khi mỗi tháng, dù chúng đã vắt kiệt sức mình, chi tiêu dè xẻn cũng chỉ dư được dăm trăm ngàn đồng! Về làm sao được khi hàng trăm thứ bà dằn cần đến tiền khi ông ngã sự. Mà, ông thì không thể tự mình vượt trăm núi ngìn sông để về Nơi ấy!
Về Nơi ấy! Nơi ấy bây giờ ở đâu trong không gian ngồn ngột, san sát nhà cửa ? Nơi ấy bây giờ ở đâu khi vuông trời trên đầu ông là mảng màu xám tối của căn nhà ống dài hun hút? Ông không xác định được phương hướng.Và mình ông, nếu chết đi rồi, ông sợ  cũng khó tìm về  được Nơi ấy!
Ông Thắn thò đầu qua ô cửa trên căn gác lửng. Ơn trời, ông vẫn còn sống. Ông rên lên khe khẽ, mắt nhắm lại để cảm nhận mùi nắng, mùi gió, mùi ngai ngái như là mùi bùn đất mà đêm ngày ông nhung nhớ. Suốt ngày ông bị nhốt trong căn nhà ống đục lờ nhờ, ăn đúng món ăn ấy, ngồi đúng góc cửa ấy và cô đơn không còn độ để pha thêm gia vị. Tuần vài lần ông trèo lên căn gác lửng, thò đầu qua ô cửa để hướng tầm mắt về nơi ấy. Ông tin, một niềm tin mãnh liết, rằng tít về phía chấm xanh, những chấm xanh nhỏ li ti kia là Nơi ấy. Nơi ấy linh thiêng, Nơi ấy máu thịt, Nơi ấythuộc về ông ! Nhưng, vì đứa con mà bà Thắn đứt ruột đẻ ra, ông đành phải xa. Đành để mất. Đành đau đớn khi cuộc sống chỉ còn tính bằng ngày !
Mười mấy năm theo con vào Nam, không biết mấy trăm lần ông thò đầu qua ô cửa sổ, để gió nắng mơn trớn gương mắt già, khắc khổ của ông. Trong sâu thẳm lòng mình, ông chờ đợi, ông khát khao một làn khói mỏng len lên trong bóng hoàng hôn. Hàng trăm lần ông hướng mắt tới những chấm xanh nhỏ li ti trong bóng chiều buông.
Gió cuối mùa tấp tưởi trườn qua những góc nhà cao tầng. Gió quất vào mặt ông rát buốt. Hơi gió mặn và nồng cho ông biết, năm lại sắp qua đi. Đã là ngày hai mươi hai tết. Ngày này ở quê, nhà nhà đều rậm rịch. Ngày này, ông thường xuyên gom lá rụng, ngày gom đến mấy lần và châm lửa đốt khi chiều về. Ông thích những làn khói len trong chiều muộn. Mọi muồn phiền, bươn chải của cuộc sống thường nhật bị cuốn theo làn khói ấm, cay nồng. Người ông đẫm hương khói, da thịt ông được ướp bởi cái vị nồng ấm thân thương ấy!
Bây giờ ông phải xa, bây giờ ông đã mất...Và bây giờ, là khắc khoải, là rát buốt, là đớn đau!
Tự nhiên ông thấy lạnh. Một cơn lạnh chạy từ đỉnh đầu, chạy dọc xương sống tới gan bàn chân. Trước mắt ông là những đốm lửa nhỏ li ti. Những đốm lửa nhảy múa, bay chờn vờn. Ông cố gắng mở to mắt, cố thu vào trong ấy những chấm xanh nhỏ phía xa tít kia! Đã hai hai tết rồi còn gì, đã là ngày người quê ông ngúm lửa từ chiều. Đã là ngày trẻ con, người già quê ông gom lá, khói len trên những mái bếp, những vòm cây 
Đến phút cuối, ông vẫn không nhìn thấy.
Khói hoàng hôn!

                        Tháng 1/2017
                             T.P.S

. . . . .
Loading the player...