11-12-2025 - 00:45

Vài suy nghĩ về văn nghệ dân gian ở Kỳ Anh

Tạp chí Hồng Lĩnh số 231 trân trọng giới thiệu bài viết “Vài suy nghĩ về văn nghệ dân gian ở Kỳ Anh” của tác giả Trần Quốc Thường

Xứ Voi tên gọi dân gian chỉ vùng đất Kỳ Anh phía Nam Hà Tĩnh, nơi giao thoa giữa dãy Hoành Sơn hùng vĩ và biển Đông mênh mông. Trong quá trình khai phá, tạo lập cuộc sống, cư dân Kỳ Anh đã sáng tạo nên một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú, phản ánh sinh động tâm hồn, lao động sản xuất và tín ngưỡng của cộng đồng. Tên gọi “xứ Voi” gắn với truyền thuyết Voi Khổng lồ giúp dân lập làng, đào sông, mở lối, để lại dấu chân khắp các vùng Kỳ Sơn, Kỳ Phong, Kỳ Lạc. Dấu tích “Hòn Voi”, “Mõm Voi”, “Hang Voi” vẫn còn là chứng tích văn hoá, tín ngưỡng của người dân. Trong tâm thức dân gian, hình tượng con voi biểu trưng cho sức mạnh, lòng trung nghĩa và tinh thần đoàn kết chống thiên tai, giặc giã phẩm chất tiêu biểu của người Kỳ Anh xưa nay.

Văn học truyền miệng Kỳ Anh giàu có với hệ thống truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười phản ánh quá trình khai hoang, lập ấp, đấu tranh bảo vệ quê hương. “Cuộc chiến tranh giữa núi và biển” là thiên thần thoại cổ kính, hiếm thấy ở Nghệ Tĩnh. Không chỉ giải thích hiện tượng núi mọc ra biển ở vùng Kỳ Anh, mà phản ánh một thời lịch sử xa xưa, con người đã được thần hoá. Truyện “Liễu Hạnh công chúa” cũng vậy, không chỉ là tín ngưỡng mà còn phản ánh hiện tượng thiên nhiên. Trận đánh của bà chúa Liễu Hạnh với tám vị Kim Cương làm một vùng núi tan hoang phải chăng nói về những trận bão khủng khiếp ở mảnh đất này. Truyền thuyết, thần thoại khá phong phú như “Sự tích bà Bích Châu”, “Sự tích ông Hoàng Liệt Thượng” (Phùng Trí Tri), “Chuyện Thánh Tổ, Thánh Tiên” (nói về đền hai ông cháu Phạm Tiêm, Phạm Hoàng)... vừa mang yếu tố linh thiêng, vừa gắn liền với các di tích lịch sử, tâm linh của vùng. Những cốt truyện ấy không chỉ là cách giải thích hiện tượng tự nhiên, mà còn gửi gắm niềm tin vào sức mạnh con người, tinh thần nghĩa hiệp và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Một số truyện cười ở đây cũng có nét riêng, do những người nông dân sáng tạo từ công việc đồng áng hàng ngày, để lấy tiếng cười xòa đi mệt nhọc, như chuyện “Anh lính gan dạ”. Bên cạnh đó, hệ thống tục thờ thần núi, thần sông, thờ cá Ông ở các làng biển (như Kỳ Ninh, Kỳ Lợi, Kỳ Phương) thể hiện tín ngưỡng biển đậm nét. Lễ hội cầu ngư, lễ hội đua thuyền đầu xuân là dịp để cộng đồng tưởng nhớ tổ nghề đánh bắt, cầu cho “mưa thuận gió hoà, tôm cá đầy khoang”. Ở miền núi phía Tây, tục thờ Mẫu Thượng Ngàn, thờ thần rừng, thần nước… phản ánh rõ dấu ấn văn hoá nông, ngư, sơn cư xen hòa.

Xứ Voi nổi tiếng với những làn điệu dân ca mộc mạc, trữ tình, phổ biến ở khắp nơi: “Đất Vạn Tràng chạy cá/ Đất Trung Hạ đốt vôi/ Đất Kẻ Dua bầy tôi/ Đứa nằm ngả trên nôi/ Cũng biết đàng hát giặm”. Từ lao động sản xuất, người dân sáng tác nhiều điệu hò: hò mái nhì, hò giã vôi, hò kéo neo, hò đập đá, hò đưa linh. Mỗi điệu có tiết tấu, nhịp điệu và cách ngân khác nhau, phù hợp với từng công việc. Câu hò là lời tâm sự, là tiếng lòng yêu đời và cũng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Nói đến Kì Anh là người ta nhắc đến Cô Nhẫn làng Đan Du danh tiếng một thời. Cô có tài ví, hát. Vốn thông minh, những chữ nghĩa bòn mót được khi đi ở, cô đã biết vận dụng một cách tài tình, sáng tạo nên những câu ví khiến các nho sĩ cũng phải kinh ngạc: “Giăng giăng nguyệt dọi sân đình/ Gió phong phanh thổi, sao linh tinh tàn”. Ở các làng ven sông, ven biển, ví phường vải, ví phường nón, hát đối nam nữ từng là nét sinh hoạt văn nghệ dân gian sôi nổi. Những đêm trăng sáng, trai gái tụ họp, hát ví, đối đáp bằng những câu ca ứng khẩu, nhẹ nhàng mà sâu sắc: “Kỳ Anh đất hẹp người đông/ Núi cao, biển rộng, tấm lòng rộng hơn.”. Hình thức hát phường vải còn mang tính nghề nghiệp gắn với lao động dệt vải của phụ nữ, nên vừa có nhịp kéo sợi, vừa có nhịp xúc cảm lứa đôi. Qua lời ca, người Kỳ Anh gửi gắm tình yêu quê hương, khát vọng sống và đạo lý thuỷ chung.

Trong các lễ hội đình làng, hội đền, cư dân xứ Voi còn duy trì trò rối nước, múa lân, múa đèn, hát sắc bùa, hát trò. Đặc biệt là trò “hát đưa linh” một hình thức diễn xướng tang lễ cổ. Hát đưa linh không bi lụy, mà chan chứa tinh thần nhân văn: người còn tiễn người khuất với mong ước siêu thoát. Các làn điệu như hát ru hồn, hát chầu linh, hát đưa linh nhi đều thể hiện triết lý “sống gửi, thác về”, thấm đẫm tinh thần Phật - Nho - Đạo. Ở vùng Kỳ Thọ, Kỳ Tân, hội vật cổ truyền, đấu cờ người, hội đua thuyền là hình thức nghệ thuật dân gian vừa rèn luyện thể lực, vừa tôn vinh trí tuệ. Trong các nghi lễ nông nghiệp, múa rồng, múa lân, rước thần nông thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Đặc biệt, điệu múa bông chèo cạn vẫn được người dân Kỳ Bắc, Kỳ Xuân duy trì trong dịp tết Nguyên đán. Kho tàng trò chơi dân gian như kéo co, đánh đu, bịt mắt bắt dê, đánh cờ, hát đồng dao… vẫn được trẻ em vùng quê duy trì, tạo nên không gian văn hóa sống động mỗi dịp hội làng.

Người Kỳ Anh giàu trí tuệ thực hành, sáng tạo nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố phản ánh kinh nghiệm sản xuất, dự báo thời tiết, y học dân gian, giáo dục nhân cách. Những câu như: “Chớp Mũi Đao dợ hàng rào mà nấu”, “Mây kéo về Nam có tằm ăn dâu”, “Mồng chín gió chướng, mười bốn gió nồm”… vừa là lời đúc kết về khí hậu vùng biển, vừa là tri thức bản địa quý giá.

Ca dao xứ Voi chan chứa tình người, trọng nghĩa khí: “Ai về Kỳ Thịnh quê tôi,/

Có thương thì ghé, có đôi thì dừng./ Nước non một dải tình chung,/ Đất nghèo mà nghĩa, ai từng chẳng yêu.”

Trước làn sóng đô thị hóa và hội nhập, nhiều sinh hoạt dân gian truyền thống ở Kỳ Anh có nguy cơ mai một. Tuy vậy, những năm gần đây, chính quyền và các nhà nghiên cứu đã quan tâm phục dựng, bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc: phục hồi lễ hội cầu ngư Kỳ Ninh, bảo tồn hát ví hò Kỳ Anh, xây dựng hồ sơ di sản phi vật thể cấp tỉnh. Trường học, trung tâm văn hóa thể thao các xã đã đưa Dân ca, Ví giặm vào sinh hoạt ngoại khóa, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tiếp nối di sản. Nhiều nghệ nhân cao tuổi như cụ Nguyễn Thị Tình (Kỳ Lợi), ông Phan Văn Trọng (Kỳ Xuân), bà Trần Thị Nguyệt (Kỳ Thọ), đặc biệt hiện nay có Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm ở xã Kỳ Bắc là người có công sưu tầm, gìn giữ và truyền bá văn nghệ dân gian, hò vè ví dặm ở Kỳ Anh và Hà Tĩnh. Họ đã cống hiến công sức sưu tầm, truyền dạy dân ca ví giặm, góp phần làm sống lại “hồn cốt xứ Voi”. Việc xây dựng hồ sơ di sản văn nghệ dân gian xứ Voi là cần thiết trong tiến trình phát triển bền vững văn hóa Hà Tĩnh, giúp xác lập vị thế của vùng đất biên viễn xưa để Kỳ Anh cũng là một “vùng lõi văn hóa dân gian” đặc sắc của Bắc Trung Bộ.

NNND Trần Khánh Cẩm và NNUT Vũ Thanh Minh với tiết mục Giặm kể “Ô lục soạn”

Kinh tế, đời sống của nhân dân Kỳ Anh ngày càng phát triển vượt bậc là là điều kiện tốt để đầu tư phát triển văn hoá. Văn nghệ dân gian xứ Voi huyện Kỳ Anh cũ là kết tinh của lao động, tín ngưỡng, trí tuệ và tâm hồn con người nơi đầu sóng ngọn gió. Dù trải qua bao biến động lịch sử, những làn điệu hò, ví, những câu chuyện truyền thuyết, lễ hội và trò diễn vẫn thấm sâu trong đời sống, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa địa phương. Giữ gìn, nghiên cứu và phát huy giá trị ấy không chỉ là tri ân tổ tiên, mà còn là cách khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt trong dòng chảy hiện đại hóa hôm nay./.

T.Q.T

. . . . .
Loading the player...