30-09-2025 - 23:16

Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh 95 năm dưới ánh sáng soi đường của Đảng

Chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 – 2030. Tạp chí Hồng Lĩnh số 229 tháng 9/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh 95 năm dưới ánh sáng soi đường của Đảng” của tác giả Bình Chi

Từ khí thế sục sôi của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930–1931 đến kỷ nguyên số hôm nay, chặng đường 95 năm của văn học nghệ thuật (VHNT) Hà Tĩnh là một hành trình không ngừng vận động và trưởng thành trong quỹ đạo cách mạng, dưới sự lãnh đạo nhất quán và sáng suốt của Đảng. Luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực phát triển, Đảng ta đã ban hành những định hướng chiến lược, tạo động lực cho hoạt động sáng tạo VHNT bằng các văn kiện mang tính cột mốc như: Đề cương về Văn hoá Việt Nam (1943), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Nghị quyết số 23-NQ/TW (2008) của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014) của Trung ương... Những nghị quyết quan trọng về phát triển văn hóa, VHNT đã trở kim chỉ nam cho VHNT từ trung ương đến địa phương.

Trên nền tảng lý luận vững chắc ấy, Hà Tĩnh, vùng đất địa linh nhân kiệt đã kết tinh một dòng VHNT vừa đằm sâu bản sắc dân gian, vừa hào sảng chất sử thi cách mạng, vừa không ngừng hiện đại hóa bút pháp và cách thức thể hiện. Điểm lại 95 năm của VHNT Hà Tĩnh theo tiến trình lịch sử, chúng ta thấy các thế hệ văn nghệ sĩ Hà Tĩnh đã gặp nhau ở một điểm: sáng tạo nghệ thuật là một cách phụng sự Tổ quốc, Nhân dân dưới ánh sáng soi đường của Đảng.

Giai đoạn 1930 - 1945, khi cao trào cách mạng lên cao, VHNT Hà Tĩnh đã gắn chặt với chức năng cổ vũ, thức tỉnh. Trên nền tư tưởng cách mạng và tinh thần yêu nước, nhiều hình thức dân gian, nhất là Ví, Giặm được “cách mạng hoá” ngôn ngữ để chuyển tải thông điệp đấu tranh đến quần chúng. Nguyễn Đổng Chi, học giả người Can Lộc, sớm nhập cuộc bằng phóng sự Túp lều nát [1], viết từ bùn đất nông thôn Nghệ Tĩnh, lên án cường hào, đứng hẳn về phía người cùng khổ; đây là một ví dụ văn xuôi hiện thực sớm, chạm đúng tinh thần “văn nghệ là vũ khí” của thời đoạn này. Trên không gian diễn xướng, ví Sông La cùng các làn điệu ví giặm ở Đức Thọ, dọc đôi bờ sông La đã lan truyền rộng trước 1945; ngoài chức năng lao động, sinh hoạt, lời ca thấm đậm lòng yêu nước đoàn kết, rồi được “cách mạng hoá” để tuyên truyền, cổ vũ phong trào yêu nước. Hạt mầm thẩm mỹ, chính trị ấy trở thành tiền đề để VHNT Hà Tĩnh bước vào giai đoạn kháng chiến tiếp theo với một bản lĩnh đã định hình.

Trong giai đoạn 1945 - 1954, văn học nghệ thuật Hà Tĩnh thật sự ra trận. Đội tuyên truyền lưu động, hoạt cảnh thời sự, ca kịch ngắn theo âm điệu Ví, Giặm được dàn dựng ở thôn xóm, đơn vị; nghệ thuật vừa nuôi tinh thần hậu phương, vừa tiếp lửa cho tiền tuyến. Ở lĩnh vực mỹ thuật, danh hoạ Nguyễn Phan Chánh vẽ tranh lụa tham gia kháng chiến và nhiều tranh cổ động, áp phích, biểu hiện rõ quan niệm “nghệ sĩ là chiến sĩ” [2]. Ở Khu IV, Chi hội Văn nghệ Liên khu IV ra đời năm 1949, mở liên tiếp các khoá “văn nghệ kháng chiến” dạy sáng tác ca dao, hò vè, kịch ngắn, vẽ, hát, dàn dựng và đưa học viên đi thực tế; từ đó, một lớp hạt nhân văn nghệ quần chúng được rèn luyện bài bản, sẵn sàng đi cơ sở. Dân ca ví, giặm tiếp tục được “cách mạng hoá” để chuyển tải nhiệm vụ chính trị, tạo nên “chuẩn thẩm mỹ, đạo đức” cho đông đảo quần chúng và là căn cước nghệ thuật của Hà Tĩnh thời kháng chiến. Chính sự kết hợp giữa tổ chức (Chi hội, đội tuyên truyền), lực lượng (văn nghệ sĩ, hạt nhân quần chúng) và chất liệu bản địa (Ví, Giặm) đã định hình phong thái VHNT Hà Tĩnh: nghệ thuật để động viên, để chiến đấu.

Giai đoạn 1954 - 1975, mạch nguồn ấy thăng hoa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đường lối của Đảng yêu cầu VHNT “phản ánh chân thật cuộc sống đấu tranh cách mạng”, tôn vinh cái đẹp người lao động, chiến sĩ. Ở Hà Tĩnh, đoàn văn công và các đội tuyên truyền tỏa đi khắp nơi, “tiếng hát át tiếng bom”; những hình tượng như Ngã ba Đồng Lộc đi vào thơ, nhạc, nhiếp ảnh, sân khấu như một “trường ca chiến đấu” không dứt của mảnh đất này. Ngày 6/12/1968, sau quyết định của Ủy ban Hành chính tỉnh, Đại hội Văn nghệ toàn tỉnh (28–30/1/1969) thành lập Hội Sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh với 72 hội viên; Tập san Sông La, các ấn phẩm “Thơ Hà Tĩnh 1965–1968”, “Kịch ngắn chống Mỹ”, “Ca dao chống Mỹ” trở thành diễn đàn tập hợp, cổ vũ sáng tác giữa thời chiến. Các tác phẩm âm nhạc, bút ký, trường ca, thơ về các địa danh và con người của Hà Tĩnh…được sáng tác và in báo, góp phần tạo nên “ký ức thẩm mỹ” chung của cả nước.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh và Ban Chấp hành Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh những ngày đầu tách tỉnh (năm 1992). Ảnh: Tư liệu

 Sau tách tỉnh, 1991 - 2010 là giai đoạn đổi mới tư duy nghệ thuật. Tạp chí Hồng Lĩnh (1992) ra đời, vừa là diễn đàn phê bình, nghiên cứu, diễn đàn sáng tác,  của các thế hệ văn nghệ sĩ trong và ngoài tỉnh. Các thế hệ văn nghệ sĩ đã nối tiếp nhau trưởng thành và đóng góp lớn cho VHNT tỉnh nhà trên tất cả các loại hình từ văn học đến nghệ thuật. Tác phẩm của họ luôn đặt Nhân dân làm trung tâm, quan tâm sâu sắc đến hiện thực đời sống, khai thác những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của quê hương; xây dựng một nền VHNT Hà Tĩnh đậm đà bản sắc vùng miền, thể hiện được khí chất, truyền thống nhân văn của đất và người Hà Tĩnh; thể hiện đúng  quan niệm Đảng về vai trò VHNT trong xây dựng con người. Về thể chế, Nghị quyết 23-NQ/TW (2008) nhấn mạnh tự do sáng tạo gắn với trách nhiệm công dân, yêu cầu phát triển văn nghệ quần chúng song hành với chuyên nghiệp hết sức phù hợp với đặc thù Hà Tĩnh.

Từ 2011 - 2025, các nghị quyết mới tiếp tục soi sáng hành trình của các văn nghệ sĩ trên chặng đường sáng tác. Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) đặt VHNT ở trung tâm công cuộc xây dựng con người Việt Nam; Hội nghị Văn hoá toàn quốc (2021) và ở cấp tỉnh là Nghị quyết 18-NQ/TU (2023) đã cụ thể hoá mục tiêu, giải pháp cho phát triển đa dạng loại hình VHNT, nâng chất hoạt động Hội, xây dựng Đề án phát triển VHNT Hà Tĩnh đến 2030. Đến 4/2025, Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh có 251 hội viên ở 9 chuyên ngành (Văn, Thơ, Lý luận phê bình, Văn nghệ dân gian, Sân khấu - biểu diễn, Âm nhạc, Nhiếp ảnh, Mỹ thuật và Kiến trúc), một “độ dày tổ chức” đủ để nuôi dưỡng tài năng, thử nghiệm phong cách, nâng cao chất lượng tác phẩm [3]. Giải thưởng VHNT Nguyễn Du duy trì nhịp 5 năm; riêng lần thứ VII (2015–2020) ghi nhận 281 tác phẩm của 88 tác giả, quy trình chấm nhiều vòng đảm bảo chuẩn kép chính trị, nghệ thuật, tạo động cơ nghề nghiệp lành mạnh [4]. Tạp chí Hồng Lĩnh được phê duyệt Đề án phát triển đến 2025, tầm nhìn 2030, nâng cao chất lượng tạp chí, đúng mô hình “điểm tựa thể chế” cho sáng tác, phê bình.

Tất nhiên, vẫn có những thách thức không nhỏ còn ở phía trước, đó là vẫn thiếu những tác phẩm đúng tầm hiện thực, một số tác phẩm đôi lúc lệch chuẩn thị hiếu, văn nghệ sỹ vẫn còn lúng túng trước cơ chế thị trường... Nhưng cũng chính vì thế, định hướng của Đảng tại các Nghị quyết 23, 33 của Trung ương và Nghị quyết 18 của Tỉnh uỷ càng đóng vai trò quan trọng để dẫn đường, xây dựng bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp cho văn nghệ sĩ; đặt hàng đề tài lớn; đào tạo, trọng dụng tài năng, tăng đầu tư và xã hội hoá.

Trên đường đi tới điểm mốc lịch sử 100 năm, ưu tiên chiến lược của VHNT Hà Tĩnh không phải là “nhiều” mà là “đúng”: đúng tuyến (đứng về phía nhân dân, vì lợi ích chung), đúng nhịp thời đại (chuyển đổi số, công nghiệp văn hoá), đúng chuẩn thẩm mỹ (cách mạng, nhân văn). Với độ dày truyền thống, cơ chế rõ ràng, VHNT Hà Tĩnh đã, đang và sẽ phát triển tươi tốt dưới ánh sáng soi đường của Đảng./.

B.C

__________________

[1] Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai (bút danh của Nguyễn Đổng Chi) do Thư viện Mộng Thương thư trai xuất bản năm 1937

[2] https://congly.vn/danh-hoa-tuoi-thin-rang-danh-dat-viet-416761.html

[3] Báo Hà Tĩnh (05/7/2020), “Hội viên Hội VHNT Hà Tĩnh say mê sáng tạo, phản ánh chân thực đời sống KT-XH.”

[4] Cổng TTĐT Hà Tĩnh (28/8/2020), “281 tác phẩm của 88 tác giả tham gia Giải thưởng VHNT Nguyễn Du lần VII (2015–2020).”

. . . . .
Loading the player...