Nhân kỷ niệm 105 năm Ngày sinh của Nhà thơ Huy Cận. Tạp chí Hồng Lĩnh số 213 tháng 5/2024 trân trọng giới thiệu bài viết “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm” của Nhà thơ Lê Quốc Hán
Nhà thơ Huy Cận
Huy Cận (31/5/1919 - 19/2/2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ Mới (1930 - 1945). Nhiều nhà phê bình xếp ông cùng Xuân Diệu, Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử vào hàng “tứ bất tử” trong thi ca Việt Nam giai đoạn này.
Huy Cận sinh ra và lớn lên dưới chân núi mồng Gà bên bờ sông Ngàn Sâu (Hà Tĩnh), một vùng địa linh nhân kiệt và hữu tình. Tuổi thanh xuân (từ lúc học trung học - “đệ tứ niên” - đến khi đậu Tú tài), Huy Cận sống ở cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự thơ mộng. Phải chăng sự hòa quyện giữa hai vùng đất linh thiêng nghiêng về nữ tính này đã góp phần làm nên một hồn thơ Huy Cận sang trọng, đẹp kiêu sa nhưng buồn da diết, kết tinh trong thi phẩm “Lửa thiêng”? Không gian, tình người, phong cảnh cố đô Huế hòa quyện với những ký ức - ẩn ức tuổi thơ ở cố hương, mà kiệt tác “Ngậm ngùi” là một điển hình.
Tôi yêu thơ Huy Cận khi chưa đọc thơ chàng. Tình yêu ấy được truyền từ huyết mạch của cha tôi, một người rất đam mê thơ ca, nhất là thơ ca lãng mạn Pháp và Việt. Quê hai người rất gần nhau, chỉ cách mấy sải chim bay. Cha tôi sinh ra ở làng Xa Lang, một làng cuối cùng của hạ lưu sông Ngàn Phố, còn thi sĩ Huy Cận sinh ra ở làng Ân Phú, một làng gần hạ lưu sông Ngàn Sâu. Cả hai con sông này hợp lưu ở bến Tam Soa thành con sông La (phần Lam giang chảy trên đất Đức Thọ) trước khi đổ ra Biển Đông. Hai người cùng sinh vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ hai mươi: Cha tôi sinh vào năm 1910 (đầu thập kỷ) còn nhà thơ Huy Cận sinh năm 1919 (cuối thập kỷ). Khi nhà thơ Huy Cận nổi lên trên thi đàn Việt Nam, cũng là lúc cha tôi đang ở tuổi thanh niên giàu nhiệt huyết nhất. Là một người chịu nhiều ảnh hưởng Tây học, từng tốt nghiệp Trường Collège de Vinh, không mê thơ Huy Cận mới là chuyện lạ. Nhưng cũng như nhiều thanh niên trí thức sống trong cảnh nô lệ mất nước thời ấy, ảnh hướng lớn nhất của thơ Huy Cận là nỗi buồn mang mang thiên cổ: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu. Bài thơ cha tôi hay ru chúng tôi nhất là bài thơ “Mai sau”: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm/ Gió trăng ơi còn nhớ người chăng/ Hơn một lần chàng đã gửi cho trăng/ Nỗi hiu quạnh của lòng buồn vô cớ/ Thuở chàng sống lòng chàng hay nhớ… Đọc đến đây, Cha tôi hạ giọng: “Còn sống mà coi như mình đã chết, hỏi từ cổ chí kim có ai sầu hơn?”. Buồn đến như Trần Tử Ngang cũng chỉ thấy mình bơ vơ cô độc giữa thế gian: Ai người trước đã qua? Ai người sau chưa đẻ? Nghĩ trời đất vô cùng/ Một mình tuôn giọt lệ (Tiền bất kiến cố nhân/ Hậu bất kiến lai giả/ Niệm thiên hạ chi du du/ Độc thương nhiên nhi lệ hạ). Mỗi lần có đám tang đi qua ngõ, cha tôi lại trầm ngâm mấy ngày, rồi ngâm đi ngâm lại bài “Nhạc sầu”: Ai chết đó nhạc sầu chi lắm thế/ Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường/ Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương/ Sương hay chính bụi phai tàn lả tả. Người ru đến đây tôi thường ngủ thiếp đi và mơ thấy những cảnh trong “Nhạc sầu”: Một chút nắng mong manh, một đôi môi tái nhợt héo khô, một vài ba đầu cúi với dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ… Trong tai nghe văng vẳng những lời than: Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy/ Xe tang đi về tận thế giới nào?/…/ Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!/../ Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế! Tôi mơ thấy trời sụp xuống trên đầu, đất sạt lở dưới chân. Giật mình tỉnh dậy thấy cha tôi vẫn đắm chìm trong nỗi buồn vô hạn như người mộng du.
Những bài thơ lục bát của Huy Cận cha tôi thường ru cũng buồn không kém. Nào “Buồn đêm mưa” (Đêm mưa làm nhớ không gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la/ Tai nương nước giọt mái nhà/ Nghe trời lành lạnh nghe ta buồn buồn), nào “Ngậm ngùi” (Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu/…/ Tay anh em hãy tựa đầu/ Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…), nào “Đẹp xưa” (Trơ vơ buồn lọt quán chiều/ Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người). Câu nào không có chữ buồn cũng có chữ sầu. Hình như nỗi buồn đã thấm trong tim trong máu thi sĩ, không phải kiếp này mà còn từ kiếp nảo kiếp nào. Sau này, đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, tôi càng thấy cái tinh tế khi hai ông nhận xét: “Huy Cận triền miên trong cảnh xưa, trò chuyện cùng người xưa, luôn đi về trên con đường thời gian vô tận. Có lúc hình như thi nhân không phân biệt mộng và thực, ngày trước với ngày nay. Cảnh trước mắt người mơ màng như đã thấy ở một kiếp nào, tình mới nhóm người tưởng chừng hẹn đâu từ vạn kỷ”. Nỗi buồn chàng Huy phần nhiều là nỗi buồn tự có, không phải do va đập của cuộc sống. Ta ít khi thấy trong thơ chàng nỗi buồn do tình yêu tan vỡ, do mộng ước không thành, những nỗi buồn nghèo đói hay chiến tranh đưa lại. Về cơ bản, đó là nỗi buồn sinh ra từ trí tưởng tượng của một trái tim đa sầu hơn là đa cảm.
Là một người gần như tha hương, cha tôi cũng hay nhớ quê hương với con sông Ngàn Phố thơ mộng nhưng không kém phần dữ dội trong những ngày bão lũ. Những lúc ấy Người trầm ngâm như đang đi ngược về quá khứ tuổi thơ, nhớ tới Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song. Trước mắt người hiện rõ mồn một những cảnh hiu hắt trong hoàng hôn chiều tà bóng xế: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu/…/ Nắng xuống, trời lên cao chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cố liêu hay tiêu điều xơ xác sau cơn lũ: Bèo dạt về đâu hàng nối hàng/ Mênh mông không một chuyến đò ngang/.../ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng/.../ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Trông Người bơ vơ chẳng khác gì Củi một cành khô lạc giữa dòng. Người cất tiếng ngâm khe khẽ: Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà rồi gật gù: còn buồn hơn cả Thôi Hiệu: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
Khi lớn lên, được đọc một số bài thơ của Huy Cận như “Đoàn thuyền đánh cá”, tôi có cảm tưởng “gặp” một “Chàng Huy Cận khác”, luôn vui tươi rạo rực trước cuộc đời: Câu hát căng buồm cùng gió khơi/…/ Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng/…/ Ta hát bài ca gọi gió vào/.../ Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Khổ thơ nào cũng có hát ca, như cuộc đời mỗi ngày một câu hát, mỗi bài ca. Bởi “Trời mỗi ngày mỗi sáng” chăng? Cả trong cuộc chiến tranh ác liệt, với một nhãn quan lạc quan cách mạng, thi nhân vẫn phát hiện ra: Đánh Mỹ quả là niềm vui lớn. Có một lần, bất ngờ ta gặp lại nỗi buồn của chàng Huy thuở trước trong “Các vị La Hán chùa Tây Phương”, qua nét chạm trổ các bức tượng nói lên nỗi đau nhân thế của các bậc tiền nhân (hay chính nỗi đau của nhà thơ): Mỗi người một vẻ, mặt con người/ Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời/ Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã/ Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi// Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau/ Quay theo tám hướng hỏi trời sâu/ Một câu hỏi lớn. Không lời đáp/ Cho đến bây giờ mặt vẫn chau. Sao vẫn cảm thấy đó không phải nỗi đau từ trong tim đi ra mà từ ngoại cảnh hướng vào. Dừng lại ở một chút vấn vương: Tôi đến thăm về lòng vấn vương, một chút cảm thông chia sẻ: Đau đời có cứu được mình đâu, một lời ủi an nhắn gửi: Về đây, tươi vạn dặm đường xuân. Rồi tôi tìm đọc rất nhiều tập thơ ông được xuất bản trong thời gian ấy mong tìm lại gương mặt thơ của chàng Huy xưa. May sao, sau thời kỳ đổi mới, Thi nhân Việt Nam được tái bản và tôi được đọc lại các bài thơ của ông xưa cha tôi hay đọc. Tôi còn có điều kiện đọc lại tập thơ đầu tay Lửa thiêng của ông cùng những tác phẩm khác: Kinh cầu tự, Vũ trụ ca... và vui mừng được “gặp” lại chàng Huy thuở trước. Bởi tuổi thanh xuân có nhiều trắc trở, lại thấm đượm tình yêu thơ do cha truyền lại, nên chạm tuổi tứ tuần, tôi bắt đầu làm thơ để chia sẻ nỗi lòng mình với mọi người. Và cái nỗi buồn mang mang trong thơ chàng Huy thấm trong máu xưa lại chảy trong từng trang viết của tôi: Cỏ xanh đang đợi trước mồ/ Thương tôi, tôi tôi vẫn mơ hồ kiếp tôi.
Trong cuộc đời, tôi may mắn được diện kiến nhà thơ Huy Cận hai lần. Lần đầu vào Ngày thơ Việt Nam lần thứ nhất tổ chức tại Trường Đại học Vinh. Trông ông rất tráng kiện, nói chuyện cũng hay mà đọc thơ cũng hấp dẫn (tuy không hấp dẫn bằng thơ ông). Lần ấy tôi chỉ thấy ông từ xa, mặc dù tôi cũng được mời lên đọc thơ. Lần thứ hai lúc tôi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam (tháng 12/ 2002). Lễ kết nạp kết hợp với Lễ kỷ niệm 45 thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi tìm cách lại gần ông quan sát và khá ngạc nhiên: Một nhà thơ nổi tiếng như ông sao nhìn giản dị đến nao lòng. Không giống một trí thức hiện đại mà giống các bác nông dân lực điền quê tôi. Hình như dù đi đâu, trải qua những cương vị gì, cái chất Nghệ chất phác thật thà trong ông vẫn nguyên vẹn. Tôi chợt nhớ bài thơ “Gửi người Xứ Nghệ” của ông: Ai ơi cà Xứ Nghệ/ Càng mặn lại càng giòn/ Nước chè xanh Xứ Nghệ/ Càng chát lại càng ngon/ Khoai lang vàng Xứ Nghệ/ càng nhai lại càng bùi…
Lê Quốc Hán