09-05-2017 - 16:19

Lộc Hà quê mới

Kỷ niệm 10 năm thành lập, Huyện ủy -HĐND - UBND - UBMTTQ huyện Lộc Hà xuất bản tập sách“Lộc Hà - Quê mới”, NXB Hội nhà văn - 2017


LỜI NÓI ĐẦU

 
Lộc Hà được thành lập theo Nghị định 20/2007/NĐ-CP ngày 07/02/2007 của Chính phủ trên cơ sở sáp nhập 7 xã của huyện Can Lộc và 6 xã của huyện Thạch Hà - những vùng đất có bề dày văn hóa, lịch sử hàng ngàn năm từng đi vào văn nghệ dân gian, văn học thành văn.
Thời hiện đại, vùng đất Lộc Hà giang sơn tụ khí, núi biển giao hòa tươi đẹp và sống động trên con đường phát triển bền vững đã và đang là nguồn mạch cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật ra đời.
Hướng tới Kỷ niệm 10 năm thành lập, Huyện ủy -HĐND - UBND - UBMTTQ huyện Lộc Hà xuất bản tập sách“Lộc Hà - Quê mới”, giới thiệu 35 tác phẩm văn xuôi, thơ, ca khúc, ảnh nghệ thuật, nhằm khắc họa hình ảnh mảnh đất và con người Lộc Hà, khẳng định truyền thống văn hóa, lịch sử, tiềm năng, lợi thế phát triển của Lộc Hà giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập Quốc tế, với các thế hệ người Lộc Hà hội tụ trong mình khí thiêng xứ sở địa linh, nổi bật tính cách cần cù, sáng tạo, hiếu học, nghĩa tình, thủy chung. Họ là nguồn lực, là tiềm năng vô tận cho công cuộc xây dựng Lộc Hà dân chủ, giàu mạnh, văn minh và hiện đại.
Trong quá trình biên tập chắc chắn không tránh khỏi những sơ suất, sai sót trong chọn lựa tác phẩm, trong biên tập. Kính mong được bạn đọc lượng thứ và góp ý chỉnh sửa.
 
BAN BIÊN TẬP



Xin trân trọng giới thiệu chùm thơ của một số nhà văn, nhà thơ, tác giả trong tuyển tập "Lộc Hà quê mới":
 
ĐẶNG QUỐC VINH

 
QUÊ TÔI

 
Tôi sinh ra dưới đại ngàn Hồng Lĩnh
Bên biển Đông sóng vỗ trùng trùng
Thủa còn thơ đội bom đi học
Lớn lên cùng nắng gió miền Trung
 
Quê hương tôi có câu hò ví giặm
Có vua Mai đánh giặc nhà Đường
Có ông Đùng gánh hai quả núi
Có nàng Tiên còn dấu chân vương
 
Tôi xa quê, xa mái trường năm ấy
Vẫn không quên bè bạn Kim, Bằng
Bữa theo bạn ra khơi câu cá
Đêm cùng nhau lên núi ngắm trăng
 
Quê hương tôi núi cao biển rộng
Sẽ là nơi hội tụ muôn phương
Mười năm mới Lộc Hà tràn sức trẻ
Vượt trùng khơi, theo sóng gọi lên đường
Xuân 2017
 

Đền thờ Vua Mai Hắc Đế - Ảnh: Trần Hướng


 
VÕ HỒNG HẢI

 
HUYỀN THOẠI MỘT MIỀN QUÊ

 
Nơi Rồng chọn ngâm mình
Tiên rủ nhau về tắm
Rú Bờng, Rú Bể, Rú Bin...
Một thời
cuối Sót, đầu Mênh
Một thời
Đò Điệm oằn mình sang ngang...
 
Ai trồng trúc Tiên Am
Để đá dựng ngóng bóng hình xa xứ1
Ba Xã2 có cây Da Dù
Người qua chợ Huyện, chợ Lù tìm nhau...
 
Mồ hôi mẹ nuôi con kết gò muối mặn
Ai ly hương, xưng đế vẫn vẹn thề
Ai ra Sài Sơn, ai về Mai Phụ3
Anh hùng, tài tử xứng danh quê !
 
Nơi biển ngày nào nước vơi thành Cửa Sót
Cánh chim Bằng4 vật vã một đời trai
Đồng Tử, Tiên Dung hóa thân thành huyền thoại
Anh lỗi hẹn Kim Đôi, Phù Lưu đón em về...
 
Chốn này
thực hay mê
Ta như con sóng đôi quê bạc đầu...
Lộc Hà, 2011

_____________
1 Đá Ông Bà ở xã Thịnh Lộc, Lộc Hà
2 Tên gọi trước đây, nay là xã Ích Hậu
3 Họ Phan Huy một nhánh chuyển ra Sài Sơn (nay thuộc Hà Nội); Mai Phụ: gò Họ Mai, quê Mai Hắc Đế
4 Bằng Quận công là tước hiệu của Nguyễn Hữu Chỉnh (lấy theo tên núi Côn Bằng - Rú Bờng), người được mệnh danh là “Anh hùng thời loạn”

Bãi tắm Thạch Bằng - Ảnh: Trần Công Vượng

 

MAI HỒNG NIÊN

 
VỀ LÀNG MAI LÂM - MAI PHỤ TÂM THẾ MỘT ĐỜI VUA
(Tặng Phạm Nhật Vượng)

 
Làng Mai Lâm - Mai Phụ quê nhà
Tiếng biển bao đời dập dềnh hư ảo
Những con đường ngọn cờ đào tái tạo
Nối bến bờ giữa đời thực và mơ
 
Xuôi ngược những thăng trầm còn đó một đời vua
Cửa Nam Giới, núi Quỳnh Viên, Mai Thúc Loan tâm thế !
Và Mai Phụ nơi tạc hình dáng mẹ
Non nước, quê hương, nghĩa khí anh hùng
 
Biển biếc xanh sóng ngang dọc điệp trùng
Đất xứ Nghệ và con người xứ Nghệ
Gồng gánh ca dao, chuốt lời bao câu Ví
Vùng địa linh nuôi chí lớn - tình người
 
Trang Kiều - Nguyễn Du lóng lánh vầng trăng soi
Sông Hộ Độ chuyến đò ngang gội mưa, tắm nắng
Lối cũ ta về người xưa đang tỏa bóng
Nguyên vẹn tấm lòng “chín nhớ mười thương”
 
Ngôi đền thờ Mai Hắc Đế ngát hương
Trầm mặc dưới bóng đa thời gian tụ lại
Cùng với Hương Lâm - Nam Đàn qua dòng Lam sóng trải
Ân nghĩa từ lời ru của mẹ, của bà
 
Dựng lại ngôi đền vùng đất bạc phù sa
Thạch Bằng gió xanh, lạch nguồn Mai Phụ
Tượng đài, chùa Chân Tiên, huyền thoại vua Mai núi non
Hồng kết tụ
Phù Lưu Thượng còn ghi lời tiên tổ ông bà
 
Đền thờ vua Mai thành một đài hoa
Cạnh biển, gần sông chập chùng nhạc sóng
Đền Lê Khôi nối lời đồng vọng
Giữa nhân thế, tình người với quê mẹ yêu thương.
Làng Mai Lâm - Mai Phụ 
Ngày về 11-2016
Hàng Buồm, Hà Nội, 12-2016
 

 
LÊ THÀNH NGHỊ

 
CHỢ HUYỆN

 
Xuôi cùng cơn gió Hồng Lĩnh xuống
Đường trơn in dấu chân mẹ về
Cuối năm phiên chợ người đông nghịt
Chênh vênh cầu Ngạo - em cùng đi.
 
Gió cũng theo ta cùng xuống chợ
Thổi bay tà áo mới mùa xuân
Hương trầm nhuộm gió thơm ngào ngạt
Trời ấm dần lên, đất ấm dần.
 
Bát ngát con đường quê cuối chạp
Lòng theo vạt nước chuyển ra giêng
Bốn bề thơm thảo giàn gấc chín
Hoa cải vàng theo đến bến sông.
 
Mai mốt em về đi chợ Huyện
Mưa bay như bụi phiên đông người
Ngàn hạt mưa bay ngàn thương mến
Có nhớ ngày xuống chợ cùng tôi.

Một góc Cảng cá Thạch Kim - Ảnh: Phúc Quang


 
NGUYỄN VĂN THANH


MỘT MIỀN QUÊ


Một vệt nhỏ trên bản đồ địa chính
Vùng sâu - vùng xa của Can Lộc, Thạch Hà
Quê hương bắt đầu như vậy đó
Nơi mọi con đường
cát và bùn ngập cả bàn chân
 
Nơi làng quê có người còn chạy bữa
Nhà cửa tuềnh toàng mái ngói, mái tranh
Đất phèn nhuộm lấm lem bàn tay mẹ
Lớp học nghèo nép dưới bóng tre xanh
 
Nơi đền chùa chỉ còn trong chuyện kể
Thắng cảnh quê nhà chìm giấc ngủ sâu
Một vệt nhỏ trên bản đồ địa chính
Thắm dần lên thơm thảo ngọt bùi

 
Bước khởi nghiệp như cây vừa bén rễ
Quê gồng mình ủ nhựa để nên hoa
Trên mảnh đất hết gió Lào lại lũ
Đã hồng tươi nét mặt Lộc - Hà
 
 
Chè Hồng Lộc lại thơm lừng ngõ xóm
Hộ Độ diêm trường muối mặn tình quê
Chợ Huyện, chợ Cồn khác gì phố thị
Níu chân mỗi bước ta về.
 
Ai đánh thức hồn thiêng Am Tiên dậy
Để Chân Tiên mờ ảo khói hương bay
Biển Xuân - Hải ai gọi về bãi tắm
Để cho người với biển ngất ngây say
 
Làng Mai Phụ cõi linh Mai Hắc Đế
Chùa Trúc Lâm chuông vọng đất Thanh Lương
Kim Dung Bằng Sơn - Hin Tơn Cửa Sót
Đỉnh Lự Đình thiêng nối những con đường
 
Ôi mảnh đất địa linh nhân kiệt
Mỗi bước đi rạo rực cả con tim
Mỗi bước đi lòng bồi hồi mỗi bước
Quê rạng ngời phơi phới một niềm tin
 
Một dấu son trên bản đồ địa chính
Ước muốn cháy lòng của Đảng của dân
Lộc- Hà ơi tuổi đời còn non trẻ
Trái tim người đã rực lửa thanh xuân


 
PHAN TRUNG HIẾU

 
HƯƠNG SẮC QUÊ MÌNH
Tặng N.Y

 
Dọc theo tiếng chuông chùa Phổ Độ
Lên núi tìm ướm thử dấu Chân Tiên
Nghe biển hát câu chuyện ngàn năm trước
Mối tình nào trên núi đá Quỳnh Viên
 
Cát đã mặn mồ hôi thêm càng mặn
Hộ Độ xưa trắng muối để Vua đen
Tăm bóng quẫy sực thơm mùi cá nướng
Chiều Thạch Bằng, ai giỡn nước triều lên
 
Em từng ví Lộc Hà như công chúa
Đợi chàng trai thức dậy giữa rừng sâu
Nay đã thấy những bàn tay hào hiệp
Khơi tiềm năng cho nước mạnh non giàu
 
Một vùng quê có sông dài biển rộng
Trầm mặc xưa và tươi trẻ hôm nay
Nghe tí tách tiếng trổ mầm tách nụ
Lộc dâng đầy những hương sắc ngày mai.

Lộc Hà, xuân 2017
 

Trung tâm hành chính huyện Lộc Hà - Ảnh: Trần Hướng

 

Xin hân hạnh giới thiệu Bút ký " Đời biển - Đời người..." của nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú rút từ tuyển "Lộc Hà quê mới":

 
ĐỜI BIỂN - ĐỜI NGƯỜI...


1. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là huyện Lộc Hà được thành lập và công bố chính thức vào ngày quốc tế phụ nữ cách đây 10 năm (8/3/2007). Có phải chính vì thế không mà chỉ với 10 năm thành lập, huyện đã có hai bí thứ là nữ: Chị Nữ Y và chị Trương Thanh Huyền. Một lần gặp gỡ anh em văn nghệ sĩ trong trại viết văn tổ chức tại huyện Lộc Hà, chị Nữ Y còn nói vui: “Ngày thành lập huyện Lộc Hà là ngày có mưa. Mà theo dân gian đổ mái nhà hay xây nhà mới có mưa là sẽ có lộc”. Và Lộc Hà đã có lộc thật. Lộc từ Hà (sông) và Hải (biển).
Ngay từ những ngày đầu năm Đinh Dậu này, lộc sớm của Lộc Hà là “lộc biển đầu xuân” theo như cách nói rất văn chương của anh Phan Văn Nhàn - Phó chủ tịch UBND huyện. Anh Nhàn bảo với tôi:
- Lộc biển giữa ngày xuân dường như không đơn thuần chỉ là miếng cơm manh áo, là sự đủ đầy của mỗi, gia đình, sự đợi chờ trông mong của mỗi người vợ, người mẹ, của mỗi bếp ấm đỏ lửa. Mà với người dân Lộc Hà sự vươn khơi bám biến thật thiêng liêng vì chính họ là những cột mốc chủ quyền trên vùng biến Tổ quốc. Rồi tôi sẽ giới thiệu anh gặp anh Nghĩa, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp, anh ấy sẽ cung cấp cho anh những con số cụ thế. Còn bây giờ ta đi gặp một số thuyền vừa đón lộc đầu năm mới ở khơi về.
Chúng tôi gặp tàu cá ông Lương Hồng Hải (xã Thạch Kim) và các thuyền viên khác vừa cập cảng Cửa Sót với những mẻ lưới bội thu. Những ngày trong tết bà con ngư dân đang vui bên những mâm cỗ, nhâm nhi chén rượu xuân thì sáng mồng 1 Tết trời bỗng nhiên nắng ráo và theo linh cảm trực giác lâu năm kinh nghiệm đánh bắt cá, họ đã khẩn trương ra khơi và kết quả là khoang thuyền ăm ắp cá, ăm ắp niềm vui, ăm ắp nụ cười. Anh Nhàn bảo, được tạo điều kiện về nguồn vốn cũng như các cơ chế chính sách khác, ngư dân có điều kiện hơn, yên tâm hơn đế vươn khơi, bám biến dài ngày trên những vùng biến, ngư trường lớn. Những năm trước chi phí nguồn nhiên liệu chiếm từ 70-80% tổng chi phí trong mỗi chuyến ra khơi, thậm chí còn nhiều lúc dẫn đến thua lỗ, tàu phải nhiều lần nằm bờ. Thời gian gần đây xăng dầu liên tục giảm giá đã tác động tích cực đến hoạt động khai thác đánh bắt thủy hải sản của ngư dân. Ví như ông Trần Xuân Sinh ở xóm Trung Nghĩa (Thạch Bằng), ông Nguyễn Văn Lòng, thôn Hoa Thành (Thạch Kim) trước đây chỉ biết gắn bó với những con thuyền nhỏ khai thác gần bờ, nay các ông đã là chủ nhân con tàu có mã lực đến 800CV. Còn như các ông Trương Quang Nam ở thôn Xuân Phượng (Thạch Kim), ông Nguyễn Văn Hướng ở thôn Trung Nghĩa, ông Ngô Văn Huế ở thôn Phú Mậu (Thạch Bằng) đều có những con tàu đóng mới với công suất từ 130 CV đến 250 CV Nhất là sau khi Nhà nước có chính sách hỗ trợ sự cố môi trường biển thì ngư dân ven biển Lộc Hà đã mạnh dạn đầu tư đóng tàu lớn, tăng mạnh tuyến khơi, giảm tuyến lộng và đa dạng nhiều nghề như: vây, câu, dạ kéo, bóng ghẹ, đáy...
Trở lại phòng nông nghiệp, tôi nói với Nghĩa:
- Để hiểu kỹ hơn nghề biển Lộc Hà và để có số liệu cụ thể về kinh tế biển với những dự định tương lai của nghề biển là cần lắm. Anh hãy giới thiệu cho tôi một địa bàn có thể thâm nhập thực tế.
Nghĩa nói:
- Nhà báo là người con của làng biển Thạch Kim, có thể anh trực tiếp lấy số liệu ở đó phần nào cũng nhìn ra được diện mạo đánh bắt thủy hải sản ở Lộc Hà.
Thạch Kim là xã chuyên làm nghề biển không như ở các xã khác nghề chính là nông nghiệp như Thịnh Lộc, Thạch Bằng hay nghề diêm muối như Mai Phụ, Hộ Độ. Thì đây, cứ nhìn vào báo cáo tổng kết kinh tế khai thác thủy sản trong năm qua của xã Thạch Kim mà anh Biện Ngọc Cường - Phó chủ tịch xã cung cấp thì cũng thấy được gần đây nghề đánh bắt cá của Thạch Kim đang có những bước phát triển khá dù có ảnh hưởng sự cố môi trường biển hồi tháng 4/2016: Tổng số thuyền của ngư dân Thạch Kim 102; khai thác tuyến khơi: 57; tuyến lộng: 45. Tổng công suất máy: 6300 CV Và cơ cấu ngành nghề cũng khá đa dạng, hợp lý với ngư trường hiện nay: Nghề vây (xăm 10) 8 cái, nghề câu, dạ kéo: 62 cái, nghề bóng ốc, ghẹ: 18 cái, nghề khác (câu lộng, te, đáy): 14 cái. Và kết quả thật đáng mừng khi tổng sản lượng khai thác ước chừng 2.105 tấn/năm với tổng giá trị sản phẩm 72.500.000.000đ. Mặc dù tôi đã có thời gian mấy chục năm gắn bó với vùng đất này và cả trước khi học viết văn, trở thành nhà văn, cũng đã từng có 4 năm "kéo chạc” (nói theo ngôn ngữ của người dân biển) khi nghe Cường đọc tên các ngành nghề đánh bắt tôi vẫn chẳng hiểu hết về công năng của từng kiểu đánh bắt.
Cường giải thích:
- Nghề lưới vây (lưới bao) còn gọi là nghề vây rút chỉ chuyên đánh bắt các loại cá tầng nổi hoặc tầng giữa như các loài cá nục, cá ngừ, cá cơm. Nguyên tắc đánh bắt của nghề lưới vây là khi phát hiện đàn cá, người ta thả lưới vây thành vòng tròn xung quanh đàn cá rồi kéo vây rút gọn giềng chì để thắt kín đáy không cho đàn cá thoát xuống dưới sau đó thu dần (vàng) lưới dồn cá vào trũng lưới rồi dùng vợt xúc cá lên tằm.
- Thế còn dạ kéo, nghe nói loại này tàu phải có công suất lớn và từng đôi tàu kèm nhau. Dân ở các vùng địa phương khác, nhất là miền nam họ khá thông thạo với phương thức đánh bắt này phải không?
Cường lấy tờ giấy trắng vẽ ra đôi tàu kéo kẹp ở giữa là dạ lưới:
- Đây là phương thức đánh bắt chủ lực của nghề cá, còn gọi là nghề giã cào chủ yếu đánh bắt thủy sản sống ở tầng đáy. Ta cứ thử hình dung nền đáy biển tương đối bằng phang, tàu công suất lớn kéo chiếc lưới khổng lồ hình dạng túi, miệng túi được mở lớn bằng những chiếc phao ở trên, giềng chì ở dưới và hai cánh lưới ở hai bên cào sát đáy biển để bắt cá. Đây là loại dã cào đôi (hai chiếc) có khi chỉ dã cào đơn (1 chiếc). Nghề lưới kéo đánh bắt được nhiều loài cá, tôm, mực sống ở tầng đáy và gần đáy như: “cá mối, cá phèn, cá mú, cá đù, mực nang, mực ống...”
- Còn nghề câu - Tôi hỏi - Đây là một nghề đỏi hỏi, có nhiều kinh nghiệm, nhiều mẹo mực bởi đơn giản là cá nhân người câu với chiếc cần câu của mình không có phương tiện gì hỗ trợ, sự tích lũy cả đời mới thông thạo được. Lại còn phụ thuộc vào sự may mắn như cái “vía” của từng người mà dân biển thường gọi là “sát cá” phải không?
Cường cười:
-Thì ra anh cũng tìm hiểu khá kĩ nhỉ. Nhưng em lại không thạo nghề câu lắm, bởi lâu rồi chỉ làm việc trên bờ. Em giới thiệu với anh hai người khá đặc biệt ở vùng biển Kim Đôi ta. Một là cố Dật còn được gọi là “sói biển” kì cựu, nay đã 101 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn lắm; hai là chú Trung ở xóm Sơn Bằng - chủ một con thuyền câu nhỏ nhưng sát cá lắm.
Tôi định ra gặp cố Dật vào buổi trưa, nhưng vợ tôi bảo, anh đến sớm hơn một chút không thì cố đi chơi đó.
- Đi chơi? Tôi ngạc nhiên - Ở tuổi ấy mà con đi chơi à?
- Cố hay đi chơi hàng xóm, rồi ra cảng cá, rồi lại lên Chùa nữa. Năm nào lễ hội đền Lê Khôi xã ta cũng mời cố đánh trống.
Đúng thế thật, khi tôi ra nhà cố thì chị con dâu nói rằng, Bố đang đi nhởi (chơi) ở cảng cá tầm này sắp về rồi. Chú ngồi chơi một lát, uống nước chè xanh tôi mới nấu.
Thấy tôi nhấp nhổm định phóng xe máy ra cảng cá đón cố về thì chị nói, không đời mô cố ngồi xe. Dưới biến thì đi thuyền, lên bờ thì đi bộ.
Qủa thật, chốc lát đã thấy cố Dật hiện ra đầu ngõ. Cố đi chân đất, khoan thai. Dáng người cố cao lớn, lưng thẳng, những ngón chân tõe ra khó có đôi dép nào vừa được. Cố bảo, tui đi bộ quen rồi, đi cho dẻo khớp. Suốt đời nằm trên nôốc có khi mô xỏ dép đâu. Nói rồi cố quay sang chị con dâu bảo, bựa ni trời sương mù được nhiều cá lắm, con ra ngoài cảng mua cho ông vài con cá nhắm rượu. Tôi cứ tưởng đó là loại cá đặc sản dùng đế nhắm rượu, nhưng không đó là tên một loài cá to hơn bàn tay, thịt chắc, dày, nằm sát đáy chứ không phải là mồi nhấm rượu như mực. Nhân đó tôi hỏi cố: Ở vùng biến ta có nhiều loại cá không ông. Cố nói, nhiều lắm, đế tôi kế riêng một loài cũng đã có nhiều loại, như cá nục thì có cá nục đỏ đuôi, cá nục sồ; cá cờ cũng rứa, có cờ lá, cờ đen, cờ xanh. Rồi cá lượng thì lượng sâu, lượng dài vây đuôi; thu thì thu nhật, thu chấm; mực là mực kim, mực nang, mực ống, mực xà. Nói rồi cố nheo nheo mắt nhìn tôi: Chú có biết không, trên rừng có con thú chi, thì ở dưới biển có con cá nớ. Đây tôi kể chú nghe. Cố giơ bàn tay có những ngón tay sần sùi nổi chai, nổi ngấn do những vòng cước từ số 1 đến số 10 tùy theo kích thước lớn nhỏ ăn mòn, cộm lên như những vòng nhẫn - những chiếc nhẫn như nguồn hạnh phúc lao động suốt đời của người dân biển. Chú đếm thử coi cá có các loại cùng với tên con thú như cá bò, cá chim, cá dơi, cá ngựa, cá chuồn, cá ve, cá voi, cá chó (hải cẩu), sư tử biển. Rồi tôm thì tôm hùm (hổ). Lại có loài cá mang tên bựa ăn của người dân nghèo như cá cơm, cá cháo. Lại có tên loài củ quả như cá cam, cá dưa, cá khế. Lại có loài giống một dụng cụ lao động như cá đục, cá cào, cá kiếm...
Ngồi trên ghế uống nước chè tôi thấy cố cứ lắc lư như không yên, không vững. Chị con dâu chạy vào nhà bê ra chiếc rương gỗ hình vuông chằn chặn, nước gỗ đã ngả bóng thời gian. Theo thói quen thường ngày, cố Dật chuyển sang ngồi lên đó, vững chãi như một bức tượng. Cố nói, bữa ăn tôi ngồi lên cái “gia tài” này mới ăn ngon chú ạ, quen rồi. “Gia tài” của một lão ngư hơn 100 tuổi thật giản đơn, tôi tò mò xin phép cố lật nắp cái rương gỗ, thì ra trong đó có chia ra nhiều ô, ngăn, mỗi ô đựng một dụng cụ đi biển như: Ô chứa lưới câu thì mỗi loại cá có loại câu riêng; ô chứa đủ các vòng cước kích thước khác nhau, ô chứa các ống câu to nhỏ đã nhẵn bóng, ô chứa các loại phao câu... Cố nói, già rồi không đi biển nữa giữ lại cho vui, cho đỡ nhớ biển, nhớ nghề thôi. Mà cũng thật lạ chú ạ. Cái rương gỗ ni không biết họ làm bằng gỗ chi mà không mối mọt đã đành, khi rớt xuống biển lại nổi và các mối đục gặp nước nở ra, sít lại, đổ nước vào là thành cái phao, nó đã cứu sống tui mấy lần. Nói rồi cố vân vê từng mép gỗ: Nó vừa là gia tài, vừa là ân nhân, vừa là bạn bè, vừa là cái ghế để ngồi câu. Thật tiện!.
Tôi hỏi cố:
- Trong đời đi biển thì cố thích gì nhất.
-Thích nghe đài - Cố đáp liền -Tui với cái đài như một người bạn thân thiết. Đài để nghe thời tiết là chính, rồi đài để nghe hát dân ca, bây giờ nhiều đêm tôi mở đài để nghe tiếng người mới ngủ được. Tui đọc chú nghe những câu đúc kết như: “Tháng ba trong nước em ơi -Bớt cơm anh lại mà nuôi mẹ già”. Tháng ba trong nước cá xót mắt không ăn câu. Rồi “Tháng bảy nước chảy lo le” làm hai dòng nước xoắn vào nhau khó thả lưới. Rồi "Tháng chín nhịn đi buôn’" vì tháng chín hay bão gió, khó đánh bắt.
Nhân nói đến con nước, dòng nước cố giải thích:
- Đừng tưởng trời yên biện lặng mà chủ quan. Dưới mặt nước có bao biến đổi đến giật mình. Chú có biết không, có lớp nước mặt phía trên, lại có nước sâm dưới đáy. Bốn dòng nước chạy chéo nhau như dấu cộng, lưới thả xuống là xoắn bện vào nhau. Chỉ có một thời điểm, thời gian nào đó là lúc cả bốn dòng đều thuận một chiều thì ta đánh lưới.
Tôi hỏi:
- Thế sinh con nước, rồi “nước thơm” nghĩa là gì?
Cố thủng thẳng cười:
- Sinh con nước theo mùa trăng mà ta quen gọi là thủy triều. Còn “nước thơm” là lúc thuận nước êm, cá không xót mắt.
Tôi tò mò hỏi:
- Trong đời cố đi biển nguy hiểm nhất là lúc nào?
“Tháo gió ” chú ạ! Tháo gió. Tháo gió là chạy tránh bão. Đời tui đã mấy lần tháo gió. Cố nhìn ra xa như nhớ lại một thời trai trẻ của mình, rồi tiếp giọng trở nên xa xôi - mà gió cũng lắm thứ. Gió nồm, gió bấc, gió nam, gió chướng, rồi cả “gió chìa vôi”.
- Gió chìa vôi - tên một loài chim thường gọi là chim chích chòe hót lảnh lót trong vườn buổi sáng - Tôi thảng thốt ngạc nhiên.
-Ừ - cố khẳng định- đó là loài gió đan chéo xoắn xuýt vào nhau chứ không phải là lốc tố. Ăn thua gì chú, bọn tui thường gọi là nạm (gói) “gió chìa vôi”
Tôi hỏi:
-Nghe họ đồn Thạch Kim bây giờ chỉ có mỗi cố Dật là có tài nghe được tiếng cá kêu phải không?
Cố lại cười, cái cười móm mém của người già nghe cứ khùng khục, rúc rích thật vui:
-Tài chi mô chú, tất cả là do mình luyện tai và tích lũy kinh nghiệm. Những loại cá như cá ngao vàng, ngao trắng, cá xóc nanh, xóc trắng, cá đù sẽ phát ra tiếng kêu lớn vì chúng thường tụ tập đi theo đàn với số lượng nhiều Tui lặn xuống sẽ phân biệt cá ngao vàng kêu lục tục, ngao trắng cũng vậy nhưng kêu đậm hơn. Cá xóc nang kêu cục cục, cá xóc trắng kêu túc túc... Trước kia không có đài, tui ngửi ra cả mùi bão. Cứ nhìn mây, nhìn sắc nước rồi thấy trạng thái giật giật trong người, rồi ngửi thấy mùi của rong biển trong gió là tui đoán có thay đổi thời tiết. Còn đoán sắc màu của cá đàn, của ruốc đỏ thì tui trèo lên cột buồm đe nhìn. Mắt tui tinh lắm, tai tui thính lắm, đến giờ đọc báo vẫn chưa phải đeo kính.
-Thế đời đi biển của cố khó nhất là việc gì?
- Bỏ neo! Chú có nghe bọn trẻ ngâm nga không: “Suốt đời chỉ mấy thước dây (neo) - Kéo đi kéo lại mòn tay vẫn cò . Ngư phủ hơn nhau là chuyện bỏ neo, bỏ neo trượt là đi đứt. Bão gió hay lúc đánh bắt thả lưới thì bỏ neo là quan trọng nhất. Phải đoán được luồng nước nước chảy, được gió rồi chất đất ở đó, bùn hay cát, đá hay rạn san hô để neo cắm chắc. Cả đời tôi chốt lại chỉ một chữ neo. Neo mình, neo bạn (người đi cùng thuyền), neo thuyền. Đứt neo là mất sạch!
Nghe cố nói tôi ngẫm nghĩ lại thật chí lí. Đời biển thì dài mà đời người sao ngắn thế.
Trở lại xóm Sơn Bằng, tôi gặp Trung một tay “sát cá". Khác với cố Dật, Trung nhanh nhẹn, tháo vát và hài hước nữa. Trung bảo: “Em đi câu từ lúc 9 tuổi, mê câu hơn mê chữ, thuộc lưỡi câu hơn thuộc chữ cái. Em thuộc các tính cách ăn mồi của từng con cá. Nói thật to tát như cá voi thì khi săn mồi em thấy nó thường há miệng rộng ra rồi thóp bụng lại tạo thành một dòng xoáy hút nước và cá nhỏ vào trong bụng sau đó phun phì phì thở nước ra trên lưng. Cá mập mắt nhìn kém nhưng cái mũi thì thính lạ lùng, nhất là ngửi mùi máu. Dân biển khi đắm thuyền thường lo nhất cơ thể bị xây xước, chảy máu. Cá mập sẽ ào đến như cá béc- giê đánh hơi trên bờ. Đó là cá to còn lại cá nhỏ như cá đục trong đầu nó có một hạt sạn, gặp bữa động trời sấm rộ lên hạt sạn gây cho đầu đau nhức, cá đục chui xuống dụi đầu vào cát đố ai câu được một con. Câu mực cũng là một nghệ thuật, mực mẹo mà. Mực xây tổ như con ong uốn lượn theo từng nếp sóng, như vồng khoai lang của dân làm ruộng. Mực chỉ thò cái đuôi ra ngoài vì thế khó nhử nó ra được. Khác với cá đục những đêm biển nổi giông, mực lại kéo nhau ra ngoài ăn rộ lên vài tiếng rồi lặn biệt tăm. Có thuyền đậu đúng ổ mực thả bất cứ giây gì xuống kéo lên, mực bám vào hàng chuỗi thở khụt khịt như người bị viêm xoang mũi lúc trái gió trở trời. Lại có loài cá khó câu bằng mồi mà ta chỉ bắt được bằng bóng như cá hồng, cá sú. Bóng đan bằng tre già ngâm nước dẻo quánh thành những cái chuồng hình chữ nhật. Cửa vào bóng như cái hom dỏ. Vào thì dễ ra thì khó.”. “Thế câu bóng có khó không?”- Tôi hỏi. Trung nói: “Khó chứ - Ta phải buộc hòn chì nặng vào chiếc lưỡi câu to kéo rà sát đáy biển gặp rạn đá san hô thì mắc lại. Các loài cá đặc sản thường nằm trong rạn đá. Cứ thế con nọ vào chuồng (bóng) lại kéo con kia như thả chim mồi vậy. Tóm lại “ Chim chết vì nhạ (nhựa), cá chết vì nước” Câu cá là phải đoán chừng con nước, bựa nước thơm, nước mát thì cá ăn nhiều, dỗ cá cũng như dỗ trẻ con phải mát tay và nhẹ vía, nóng nảy là không được. Cá nó cũng nghệ sĩ lắm. Nghệ sĩ! Lần đầu tiên tôi được nghe từ này. Đúng thế - Trung linh hoạt, sôi nổi: Anh đã xem cá heo diễn chưa, chúng uốn dẻo hơn cả diễn viên xiếc. Và khi được người trên thuyền vỗ tay hưởng ứng thì chúng lại càng tung hứng, phấn chấn hơn. Và vũ điệu của nó thì tuyệt vời. Lại có loài cá bầy đi theo đàn lẻ như cá ngứa, tên là ngứa mà thịt thơm lạ lùng. Còn cá chim khó câu lắm. Phải chọn anh chàng nào da trắng nhất uống nước mắm cánh gián cho nóng người rồi nhảy xuống biển uốn lượn mới dẫn dụ được cá chim vào lưới. Nói chung các loài cá rất mê ánh sáng đèn và say cả âm thanh nữa. Nếu ta mở nhạc vũ hội là chúng từng bầy kéo nhau lên mặt nước thở híp hóp thật vui. Thế giới cá thật đa dạng. Câu cá ngoài kinh nghiệm ra còn có cái vía may mắn nữa. Có lẽ trong đại dương bao la nhiều bí ẩn thì cõi người vẫn cứ đăm đăm bé nhỏ, tin cậy vào may rủi. Đêm ngủ ngón chân anh buộc vào ống câu. Chỉ một va chạm nhỏ là anh đã biết ngay cá loại gì cắn câu. Và lừa câu cá to là cả một nghệ thuật khi kéo căng, khi nới lỏng, có khi cá dắt kéo thuyền chạy hàng cây số đến lúc nó mệt lả mới bắt được...
2. Dự thảo “Đề án Phát trien kinh tế thủy sản huyện Lộc Hà giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025”, trong phần I đánh giá: “Lộc Hà là huyện ven biển, với 12 km đường bờ biển, hệ thống sông phân bổ khá đều tạo nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế thủy sản trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến. Tuy nhiên kinh tế thủy sản chưa phát huy được hết tiềm năng, lợi thế ở cả ba lĩnh vực: Ngư cụ đánh bắt lạc hậu, phương thức đánh bắt nhỏ lẻ, ngư trường đánh bắt hẹp (Chủ yếu gần bờ), rủi ro cao, tình trạng đánh bắt bằng chất nổ, xung điện, ngư cụ đánh bắt mang tính hủy diệt...vẫn còn xẩy ra. Diện tích nuôi trồng chủ yếu là quảng canh, năng suất thấp, hệ thống hạ tầng nuôi trồng thủy sản ở các vùng nuôi tập trung ngày càng xuống cấp, phát triển chưa có tính ổn định và bền vững. Chế biến thủy sản còn manh mún, nhỏ lẻ, sản phẩm chế biến chưa có thương hiệu để cạnh tranh trên thị trường.”
Thực trạng ấy tồn tại nhiều năm.
Yêu cầu cấp bách đặt ra là cần có những thay đổi tích cực, góp phần xây dựng ngành thủy sản phát triển theo hướng gía trị gia tăng, ổn định, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Vào những năm 2012, 2013, 2014, nhiều quyết định của UBND tỉnh tập trung vào việc khơi dậy tiềm năng, nguồn lực, phát triển thủy sản Hà Tĩnh: Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể nuôi tôm trên cát, Quyết định phê duyệt Quy hoạch nuôi trồng thủy sản nước ngọt, Quyết định phê duyệt Quy hoạch nuôi trồng thủy sản mặn, lợ.. .Sau các Quyết định trên và sau khi xác định được ba vùng kinh tế của huyện: vùng Trà Sơn; vùng sản xuất rau màu và sản phẩm chủ lực; vùng ven biển khai thác, chế biến, nuôi trồng thủy sản, Lộc Hà xác định muốn nâng cao gía trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới phải nhanh chóng tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Khâu đột phá đầu tiên là Quyết định 660 đầu tư cho khai thác, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi. Để mở rộng ngư trường, ra biển lớn, đánh bắt xa bờ, Lộc Hà mạnh dạn đầu tư 200 triệu đồng cho một tàu 90 CV, đến năm 2014, ban hành Quyết định 02 thay cho Quyết định 660 với thay đổi mức đầu tư và đối tượng đầu tư: đầu tư tàu 250 CV với mức 250 triệu đồng. Đầu tư giải phóng mặt bằng cho các dự án trang trại chăn nuôi, đầu tư vốn, con giống cho nuôi trồng thủy sản.. .đầu tư thành lập các mô hình sản xuất.
*
 
* *
Từ Thạch Kim theo con đường láng nhựa rộng 70 mét tôi trở về trụ sở Huyện ủy, một dãy nhà cao tầng nằm dưới chân núi Bằng Sơn. Chợt nhớ, anh Phan Văn Dương, Chủ tịch đầu tiên của huyện Lộc Hà có lần nói với tôi: Cái thủa ban đầu mọi thứ đều thiếu thốn. Thiếu nhà cửa, thiếu tiền, thiếu trang thiết bị, thiếu phương tiện làm việc, thiếu cả đường đi lại.Các ngành, kể cả Huyện ủy, UBND, HĐND huyện, nói như các cụ xưa là ăn nhờ ở độ trong đồn Biên phòng 164, trong các nhà dân Thạch Bằng, Thạch Kim, Thạch Châu, Thạch Mỹ. Nhìn ngược, nhìn xuôi, bốn phía chung quanh chỉ thấy đồng không, chỉ thấy ngổn ngang gò bãi, bãi cát và biển xanh hun hút.
Tôi bước lên những bậc tam cấp vào phòng trực Huyện ủy, hỏi tìm gặp anh Trần Xuân Lương, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện. Trần Xuân Lương là một trong số ít cán bộ chủ chốt của huyện Lộc Hà có mặt từ ngày đầu thành lập huyện, tháng 3 năm 2007. Vậy nên khúc, đoạn nào của Lộc Hà, anh đều trải biết.
Sau chén nước chè xanh chát ngọt mà Lương bảo là chè Kẻ Lù - Hồng Lộc, nhớ chuyện mình đang cần biết, tôi nói:
-Giai đoạn thôi nôi vất vả 2007 đến 2010, Lộc Hà bước ngay vào giai đoạn trưởng thành. Sau tất cả những đột phá mang tính chiến lược của huyện, tình hình kinh tế biển Lộc Hà thế nào?
Vốn là người trầm tĩnh, Trần Xuân Lương chậm rãi:
-Những năm sau Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ II (nhiệm kỳ 2010-2015), Lộc Hà có bước chuyển mình mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Phong trào xây dựng nông thôn mới với những kết qủa nó mang lại ảnh hưởng trực tiếp, tích cực tới kinh tế thủy sản. Người dân quan tâm tới lợi nhuận trên đơn vị diện tích canh tác. Nhiều làng, xã chuyển đất hoang hóa, đất trồng lúa năng suất thấp, đất sản xuất muối kém hiệu quả sang nuôi tôm. Diện tích nuôi trồng thủy sản được mở rộng; từ 420 ha năm 2012 lên 467 ha năm 2016, trong đó diện tích nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh, thâm canh công nghệ chiếm 107 ha. Sản lượng từ 1.046 tấn năm 2012 lên 1.640 tấn năm 2015.
-Còn khai thác? -Tôi hỏi.
Trần Xuân Lương nói:
-Nói đến kinh tế thủy sản Lộc Hà là phải nói tới đánh bắt hải sản ở Thạch Kim, Thạch Bằng, Thịnh Lộc. Biến giàu có cá tôm mực sứa...biến mênh mông, ngư trường cho ngư dân thì rộng lớn. Vấn đề là Quy hoạch các cụm công nghiệp tập trung, là phương tiện tàu thuyền, là ngư cụ, là cách tổ chức các hợp tác xã, các nghiệp đoàn và các tổ chức dịch vụ cung ứng trên bờ như kho đông lạnh, chế biến.Cũng như trong nuôi trồng thủy sản, nó liên quan đến dịch vụ cung cấp thức ăn, thuốc chữa bệnh, kết cấu hạ tầng điện, nước rồi các chuỗi liên kết.
-Quy hoạch là yêu cầu đầu tiên của mọi đề án phát triến kinh tế xã hội.
-Đúng vậy. Chúng tôi đã quy hoạch cụm công nghiệp tập trung với quy mô 5 ha; gồm khu cấp đông, khu chế biến nước mắm, khu sân phơi, khu nướng cá.. .Thực hiện quy hoạch này là bảo đảm dịch vụ cung ứng cho khai thác và quan trọng nữa là bảo đảm môi trường trong lành cho các khu dân cư ven biến. Anh tính hiện nay huyện Lộc Hà có 400 chiếc tàu trên 90 CV, 2 chiếc vỏ sắt trên 800CV và nhiều phương tiện đánh bắt khác, mỗi năm khai thác được 5.100 tấn hải sản. Mỗi năm Thạch Kim và một số vùng ven biến Thịnh Lộc, Thạch Bằng chế biến đến 450 ngàn lít nước mắm, 700 tấn ruốc các loại; rồi 26 kho đông lạnh với hàng ngàn lao động, mỗi năm trung chuyển 8.000 tấn hải sản làm sao để môi trường không ô nhiễm là câu hỏi ngày nào cũng phải tìm câu trả lời.
-Môi trường. Một tiêu chí của nông thôn mới.
-Tiêu chí nào của nông thôn mới cũng nội hàm các yếu tố văn hóa, cũng hướng tới phát triển sản xuất và an sinh xã hội.
- Lúc nãy anh có nói tác động tích cực của phong trào xây dựng nông thôn mới đến kinh tế thủy sản.
-Là muốn nói tới việc xây dựng mô hình. Trong Báo cáo tổng kết xây dựng nông thôn mới có thống kê từ năm 2011đến năm 2016, toàn huyện xây dựng được 522 mô hình, thành lập được 81 hợp tác xã, 1 nghiệp đoàn. Mô hình nuôi trồng thủy sản, mô hình chế biến, mô hình kho đông lạnh, mô hình đánh bắt
Trần Xuân Lương lau kính. Quen biết nhau từ lâu, tôi biết mỗi khi Trần Xuân Lương lau kính là trong đầu anh ta có một ý tưởng mới nào đấy. Nhưng lần này thì như không phải. Anh im lăng, một lúc sau chuyển cho tôi một tệp giấy và bảo:
-Những gì đã có hôm nay là tiền đề để thực hiện mục tiêu: Đưa kinh tế thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện Lộc Hà trên cả ba lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến. Anh xem mục tiêu cụ thể phát triển kinh tế thủy sản huyện chúng tôi đến năm 2020 và cho ý kiến xem có thành hiện thực không?
Tôi đã đọc mấy trang và chép ra mấy con số như sau: Đến năm 2020, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản, bao gồm nuôi tôm các loại, nuôi nhuyễn thể, nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao (cua, các chẽm, cá Hồng Mỹ ...) đạt 544 ha (Tăng 121 ha so với năm 2915); sản lượng 3.690 tấn (Tăng 2.050 tấn so với năm 2015). Nuôi trồng thủy sản nước ngọt đạt 164 ha (Tăng 37 ha so với năm 2915), sản lượng trên 640 tấn (tăng 490 tấn so với 2015). Khai thác thủy sản thì giảm số tàu đánh bắt ven bờ, tăng tàu đánh bắt xa bờ. Đến năm 2020, số phương tiện tham gia khai thác trên biển 280 chiếc với tổng công suất 38.000 CV (Tăng 24.500 CV so với năm 2015); sản lượng khai thác đạt 5.500 tấn (tăng 1.140 tấn so với năm 2015).
-Anh nghĩ sao ?- Trần Xuân Lương đột ngột hỏi.
-Về cái gì?
Trần Xuân Lương nhìn thẳng vào mắt tôi, nói:
-Về khả năng thành hiện thực của những con số anh vừa ghi chép ấy.
Tôi nói chậm, vừa nói vừa nghĩ:
Cần nhiều yếu tố để một phương hướng, một mục tiêu trở thành hiện thực, không dễ gì trả lời ngay. Chỉ có điều, hiện thực Lộc Hà sau mười năm, một hiện thực phong phú, sinh động và những người dân Lộc Hà có cốt cách, gắn bó mật thiết với quê hương, với sông nước như cố Dật, như anh Trung “ sát cá” với một đường hướng phát triển thủy sản đúng cũng đủ đưa đến cho ta niềm tin những con số đầy cảm xúc trên./.
 
N.N.P
. . . . .
Loading the player...