14-05-2025 - 01:00

Lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh 50 năm sau ngày thống nhất đất nước - nhìn từ thế hệ và thành tựu

Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu tham luận của Nhà nghiên cứu phê bình Bùi Việt Thắng “Lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh 50 năm sau ngày thống nhất đất nước - nhìn từ thế hệ và thành tựu” tại Hội thảo khoa học 50 năm nền Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)

 Nhà nghiên cứu phê bình Bùi Việt Thắng với tham luận “Lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh 50 năm sau ngày thống nhất đất nước - nhìn từ thế hệ và thành tựu” 

 

Văn chương nết đất, thông minh tính trời” (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ” (Ca dao)

I. ĐẾN HIỆN ĐẠI TỪ TRUYỀN THỐNG

Tác giả nhận thấy, trước hết cần thiết giới thuyết phạm vi nghiên cứu để tường minh hơn các nội dung được trình bày trong tham luận bằng việc xác định nội hàm “Lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh 50 năm sau ngày thống nhất đất nước - nhìn từ thế hệ và thành tựu” đồng thời với thao tác tiếp cận hoạt động lý luận, phê bình văn học của các nhà văn quê Hà Tĩnh và các cây bút đang sống và viết tại quê hương trong suốt nửa thế kỷ qua. Đây là sự quan sát và phân tích hoạt động lý luận, phê bình văn học từ xa đến gần, từ toàn cục đến bộ phận, từ diện đến điểm của một không gian văn hóa - văn học giàu truyền thống.

Nhân dịp kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh Hà Tĩnh (1831 - 2011), Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức xuất bản sách Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh (Nxb Hội Nhà văn, 2011). Văn phẩm này (giới thiệu 76 tác giả) như một “Món quà tinh thần góp phần tôn vinh các giá trị văn hóa Hà Tĩnh, vun đắp thêm lòng tự hào quê hương, dân tộc trong lòng mỗi người dân trên con đường tiến tới mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” (Lời nói đầu).

Nhà thơ Hữu Thỉnh trong Văn chương nết đất thông minh tính trời (thay Lời giới thiệu sách) đã viết: “Một tỉnh thủ thì đới thủy (giáp sông Lam), vĩ thì đạp sơn (đèo Ngang), biển và núi chạy song song với nhau, đăng đối hài hòa giữa tĩnh và động, nhu và cương, thu vào thì thâm hậu thiết tha, mở ra thì mưu lược tìm cách kê đệm cho thiên hạ. (...). Trong các cuộc thiên di mở cõi về phía Nam, Hà Tĩnh là bàn đạp, là hậu phương trực tiếp. Xem thế thì người sinh ra trên đất ấy có thể ví như máu tụ trên đầu ngón tay, cung tên đặt trên lẫy nỏ. Vẫn biết không ai có thể chọn cho mình nơi sinh ra. Nhưng nết đất là một đại tính cách, là cái vốn pháp định tinh thần đầu tiên nuôi dưỡng những thực tài” (Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh, sđd).

Hà Tĩnh là vùng đất văn chương truyền thống, tinh hoa kết tinh, lan tỏa. Hẳn đã rõ ràng như dưới thanh thiên bạch nhật. Văn học Việt Nam cổ điển thời trung đại xuất hiện những anh tài như những vì sao sáng chói trên văn đàn: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hải Thượng Lãn Ông, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu tử), Phan Đình Phùng,...Trong 7 Danh nhân văn hóa Thế giới được UNESCO vinh danh xướng tên 2 văn nhân Hà Tĩnh (Nguyễn Du, Hải Thượng Lãn Ông).

Thời hiện đại (nửa đầu thế kỷ XX), các thi nhân quê Hà Tĩnh trong phong trào Thơ mới (1932-1945) đựợc Hoài Thanh - Hoài Chân tổng kết trong công trình Thi nhân Việt Nam (1942) – các thi sĩ Huy Cận, Xuân Diệu, Quỳnh Dao, Thái Can; gần đây giới nghiên cứu phát hiện thêm Lê Khánh Đồng. Ngoài ra phải kể tên các văn nhân khác như Song An Hoàng Ngọc Phách (tác giả tiểu thuyết Tố Tâm, 1925, một thời vang bóng), phê bình gia Trương Chính với Dưới mắt tôi nổi tiếng trên văn đàn từ 1939, nhà văn - học giả Lê Thước, Hoàng Xuân Hãn (có tên trong Từ điển Văn học, Bộ mới, Nxb thế giới, 2004),...

Tổng quan về văn nhân Hà Tĩnh (nửa sau thế kỷ XX): Theo sách Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh (Nxb Hội Nhà văn, 2011), Nhà văn Việt Nam hiện đại (Nxb Hội Nhà văn, 2020), theo Website Văn nghệ Hà Tĩnh (Hội Liên Hiệp VHNT Hà Tĩnh) tính đến năm 2025 Hà Tĩnh có 88 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; có 6 nhà  văn nhận  Giải thưởng Hồ Chí minh về VHNT (Huy Cận, Xuân Diệu, Hà Xuân Trường, Hoàng Trinh, Chính Hữu, Xuân Thiều); có 6 nhà văn nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT và KHCN (Trương Chính, Phong Lê, Nguyễn Khắc Phê, Lê Thành Nghị, Đức Ban, Nguyễn Quốc Trung).  Đó là một con số biết nói. Nó nói về truyền thống văn hóa - văn học trong một không gian xứ Nghệ. Trong số 88 nhà văn, được phân bổ tự nhiên theo các ngành thơ (40), văn (29), lý luận phê bình (15), dịch thuật (4) Chưa tính đến lực lượng tại chỗ (sống và viết ở Hà Tĩnh). Chúng tôi xin được xướng tên các nhà văn Hà Tĩnh chuyên viết nghiên cứu, lý luận phê bình (theo vần a, b, c): Bùi Việt Thắng, Đinh Trí Dũng, Hà Quảng, Hà Xuân Trường, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Ngọc Phách, Hoàng Trinh, Hoàng Xuân Nhị, Lê Bá Hán, Lê Thành Nghị, Nguyễn Huệ Chi, Phong Lê, Thiếu Mai, Tôn Phương Lan, Trương Chính.

Lực lượng tại chỗ: Theo danh sách mục “Chân dung văn nghệ sĩ” trên Website Văn nghệ Hà Tĩnh (Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh), tính đến năm 2025 có 237 hội viên Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh (trong đó có 65 hội viên các chuyên ngành Trung ương), 8 hội viên chuyên ngành nghiên cứu, lý luận phê bình (Hà Quảng, Ngô Thế Lý, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thị Nguyệt,  Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Thanh Truyền, Nguyễn Văn Tịnh, Nguyễn Tùng Linh). Ai đó nói chí lý, xứ Nghệ nói chung, Hà Tĩnh nói riêng là đất của thơ ca. Hoàn toàn trúng và đúng. Nhưng cũng có thể nói, Hà Tĩnh là đất của nghiên cứu, lý luận phê bình. Ngoài 15 nhà văn (hội viên Hội Nhà văn Việt Nam), hiện nay Hà Tĩnh có một lực lượng phê bình VHNT tại chỗ tác nghiệp khá  hiệu quả. Trong số đó nổi lên những tên tuổi như Phạm Quang Ái, Nguyễn Thị Nguyệt, Phạm Thị Thanh Thúy, Nguyễn Thanh Truyền, Nguyễn. Mạnh Hà,... Cách nay chưa lâu, khi tác phẩm Truyện Kiều - chưa xong điều nghĩ (Nxb Hội Nhà văn, 2016) của cô giáo Phạm Thị Thanh Thúy xuất bản, gây men một  niềm ngưỡng mộ và kính phục trước một tình yêu văn học vô bờ bến khi tiếp biến các giá trị văn học cổ điển của dân tộc. Nguyễn Thanh Truyền là một cộng tác viên uy tín của tạp chí Văn học và Tuổi trẻ. Anh viết điềm tĩnh và thuyết phục bởi phông nền kiến văn rộng và trung thành với tinh thần đổi mới. Nguyễn Mạnh Hà tuy làm nghề báo nhưng nghiệp gắn với văn. Tác phẩm Văn hóa, văn học - một góc nhìn (Nxb Đại học Vinh, 2015) chứng tỏ tác giả đi đúng hướng khi coi văn hóa là nền tảng của văn học nghệ thuật. Trong chiến lược dài hạn, Hội LHVHNT Hà Tĩnh cần tăng cường xây dựng lực lượng này với phương châm “bốn tại chỗ”, phát huy tính thường trực tác nghiệp, hành nghề theo phương châm “hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”.

Lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh tại chỗ, theo tôi, còn khởi sắc nhờ sự cộng tác và trợ giúp tích cực, có hiệu quả của các giảng viên Trường Đại học Vinh quê hương Hà Tĩnh như Lê Văn Tùng, Nguyễn Văn Hạnh, Đinh Trí Dũng, Phan Huy Dũng, Biện Minh Điền, Đặng Lưu. Trên tạp chí Hồng Lĩnh thường xuyên xuất hiện tên tuổi của họ với những bài viết công phu có hiệu lực thực tế, tăng thêm tính hấp dẫn của một tạp chí VHNT địa phương (tình hình tương tự như quan hệ nghề nghiệp của các giảng viên Đại học Hồng Đức Hoàng Thị Huệ, Hỏa Diệu Thúy, Lê Tú Anh với Hội LHVHNT Thanh Hóa, tạp chí văn nghệ Xứ Thanh).

II. LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC HÀ TĨNH - NỬA THẾ KỶ NHÌN LẠI

1. Nhìn từ thế hệ: Sự tiếp nối thế hệ là điều kiện tiên quyết phát triển văn học bền vững. Cổ nhân nói “tre già măng mọc”, cũng nói “gừng càng già càng cay” đều chí lý, chí tình. Khảo cứu đội ngũ nghiên cứu, lý luận phê, bình văn học Hà Tĩnh nứa sau thế kỷ XX chúng tôi tạm chia thành các thế hệ sau (trong tính tương đối):

- Thế hệ tiền bối: Trước tiên phải kể đến Lê Thước (1891-1975, có tên trong Từ điển văn học, Bộ mới, Nxb Thế giới, 2004, tr. 836-0837), với các công trình khảo cứu tiêu biểu: Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du (1926), Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), Văn thơ Nguyễn Khuyến (1957), Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền (1959), Thơ chữ Hán Nguyễn Du (1965); Hoàng Xuân Hãn (1908-1966, có tên trong Từ điển văn học, Bộ mới, Nxb Thế giới, 2004, tr. 627-628) với các trước tác tiêu biểu:  Lý Thường Kiệt (1949), La Sơn Phu tử (1953), Chinh phụ ngâm (1958), về Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều; Hoàng Ngọc Phách (1896-1973), tác giả của tiểu thuyết Tố Tâm (1925) được coi là một dấu son đỏ của tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại viết bằng quốc ngữ. Nhưng Hoàng Ngọc Phách lại có nhiều đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học Việt Nam Thời thế văn chương (1941), Đâu là chân lý (1941), Giai thoại văn học Việt Nam (1954), Thơ văn Nguyễn Khuyến (1957), Thơ Trần Tế Xương (1958), Thơ văn Nguyễn Công Trứ (1959), Sơ tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng (1959), Khảo luận về Nhị Độ Mai (1959), Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách (1989). Sẽ có người vân vi nghĩ rằng, các học giả trên có đóng góp gì với phong trào văn học tỉnh nhà quê hương trong giai đoạn 50 năm sau giải phóng, khi họ đều mất trước 1975?! Câu trả lời đúng đắn nhất trong trường hợp này là: Văn học phát triển bền vững khi kế tục các thành tựu quá khứ theo tinh thần tiếp biến văn hóa “đến hiện đại từ truyền thống” và thực hành theo phương châm “tâm lý xuyên văn hóa”.

- Thế hệ 1: Hoàng Xuân Nhị (1914 -1990), Trương Chính (1916 - 2004), Hoàng Trinh (1920- 2011), Hà Xuân Trường (1924- 2006). Thế hệ này đóng vai trò nền tảng nghiên cứu, hoạt động lý luận, phê bình văn học trong một thời kỳ lịch sử chuyển giai đoạn với nhiều biến động to lớn và phức tạp. Họ làm khoa học xã hội nhân văn trong khó khăn gian khổ nhưng có ý chí và quyết tâm cao, đã tạo nên được thành tựu. Các giải thưởng danh giá dành cho họ là bảo chứng của tinh thần khoa học triệt để: Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT (Hoàng Trinh, Hà Xuân Trường); Giải thưởng Nhà nước về KHCN (Trương Chính); người được phong học hàm Giáo sư văn học sớm nhất từ 1958 (Hoàng Xuân Nhị, Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1956-1982).

- Thế hệ 2: Hoàng Ngọc Hiến (1930 -2011), Lê Bá Hán (1933-2005), Thiếu Mai (1935- 1995), Phong Lê (1938), Nguyễn Huệ Chi (1938). Được coi là thế hệ có nhiệt hứng và tiềm năng đổi mới văn học.

- Thế hệ 3: Hà Quảng (1943), Lê Thành Nghị (1946). Được coi là thế hệ khẳng định bản lĩnh nghệ thuật. Tinh thần thực tiễn cao.

- Thế hệ 4: Tôn Phương Lan (1950), Bùi Việt Thắng (1951), Đinh Trí Dũng (1959). Được coi là thế hệ sống với văn chương cùng thời, nhiều sức bật và có đóng góp thực tiễn.

- Biệt lệ: Trong triết học có khái niệm/ phạm trù “Hiện tượng phong phú hơn quy luật”.

Xuân Diệu (1916-1985), có thể nói, là một hiện tượng khi cùng lúc đóng hai vai thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, đồng thời là nhà phê bình văn học/ thơ ca sáng giá, có con mắt xanh. Di sản văn học của Xuân Diệu ngoài thơ ca còn có một khối lượng các công trình lí luận, phê bình nổi tiếng văn đàn như Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Dao có mài mới sắc (1963), Và cây đời mãi mãi xanh tươi  (1971), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy  (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2 tập, 1981-1982), Công việc làm thơ  (1984),... Thi sĩ còn được coi là một sứ giả văn hóa khi bắc nhịp cầu văn chương giữa nhân loại và dân tộc bằng công việc dịch thơ thế giới ra tiếng Việt. Nền tảng văn hóa của thi sĩ đáng là một biểu tượng của trí tuệ văn nhân. Năm 1985, trước khi mất ông viết luận văn Sự uyên bác với việc làm thơ dự dinh đọc trước Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc nhưng không kịp. Xuân Diệu là người của thơ ca từ trong máu huyết.

Phạm Xuân Nguyên, cũng có thể coi là một biệt lệ, theo cách gọi của nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài Văn chương nết đất thông minh tính trời (sách Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh) nhận xét chính xác và công bằng  “đa năng thì Phạm Xuân Nguyên”. Anh được biết đến trước hết như một dịch giả có hạng với bút danh Ngân Xuyên (dịch từ các ngôn ngữ Anh - Pháp - Nga), đồng thời là một cây bút lý luận phê bình có duyên, có biệt sắc và phong cách qua hai tác phẩm Văn chương như Thị NởKhát vọng được thành thực. Văn giới gọi thân mật anh là “hội viên không hội”, là “gã đầu bạc”. Anh vẫn cộng tác thường xuyên với tạp chí Hồng Lĩnh và hay viết “Tính sổ văn chương” của mỗi năm. Anh là người của công chúng. Tất nhiên. Nhưng anh cũng mang trong mình dòng máu của cố hương “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh”.

2. Nhìn từ thành tựu lý luận, phê bình văn học Hà Tĩnh

Lý luận phê bình văn học Hà Tĩnh góp vào thành tựu văn học Đổi mới

Đổi mới sáng tác thường đi trước một bước trong thực tiễn văn học với sự đóng góp của các nhà văn quê hương Hà Tĩnh: Xuân Thiều, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Khắc Phê, Lê Huy Quang, Phạm Ngọc Cảnh, Đức Ban, Lê Thành Nghị, Lê Quốc Hán,...

Đổi mới nghiên cứu, lý luận phê bình văn học: Nhà nghiên cứu Hoàng Trinh (1920- 2011) đã công bố 14 công trình. Trong 4 công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT, 1996 có Thi pháp học và ký hiệu học. Ký hiệu học và Thi pháp học là những phương pháp tiên tiến trong nghiên cứu, lý luận phê bình văn học, được văn giới nước ta tiếp thu thế giới và vận dụng từ những năm 80 của thế kỷ trước. Người có công đầu là Phan Ngọc (Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du qua Truyện Kiều), Đỗ Đức Hiểu (Đổi mới đọc và bình văn), Lê Dình Kỵ (Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du); kế tục là Trần Đình Sử (Thi pháp thơ Tố Hữu, Một số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam) và Hoàng Trinh (Từ Ký hiệu học đến thi pháp học, chuyên luận 1992). Hoàng Tinh viết/công bố tác phẩm này khi tuổi đã cao song trí tuệ còn rất minh mẫn, độ nhạy cảm còn tràn bờ. Đây là một tác phẩm quan trọng góp vào thành tựu nghiên cứu, lý luận phê bình theo hướng đổi mới, hiện đại, hội nhập quốc tế. Bước sang thế kỷ XXI, Ký hiệu họcThi pháp học không còn xa lạ với văn giới Việt Nam. Tinh thần tiếp biến văn hóa của nhà văn rẩt sáng rõ khi tiếp biến tinh hoa nhân loại vận dụng sáng tạo vào nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam thời hiện đại. Ký hiệu học và Thi pháp học giúp nhà nghiên cứu thẩm sâu hơn vào văn bản nghệ thuật với ý nghĩa là một cấu trúc, một diễn ngôn, một chỉnh thể nghệ thuật.

Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011) với Triết lý văn học và triết luận văn chương (2006), trình hiện nguyện vọng khái quát văn học theo góc đội triết học - mỹ học - đạo đức học. Là tác giả cổ súy nhiệt thành đổi mới văn học (tiêu biểu tiểu luận Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió, về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp). Năm 1979 tác giả trình bày tiểu luận Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa quan (in trên  báo Văn nghệ, số 23, ra ngày 9/6/1979), giới thuyết về khái niệm “Văn học phải đạo”. Theo cách trình bày tối giản của tác giả thì “Văn học phải đạo” đồng nghĩa với “chủ nghĩa minh họa” (minh họa chính trị, chính sách của Đảng và Nhà nước). Nhưng theo biện chứng thì nếu có “minh họa” cũng nên xem đó là một đặc điểm hơn là khuyết điểm của VHNT giai đoạn 1945-1975, bởi vì sự vật cần được xem xét đánh giá trong tính lịch sử - cụ thể của nó. Bốn mươi sáu năm trôi qua, nhìn lại thấy phải chăng chúng ta lại đang rơi vào một cực khác của minh họa, vô tình hay hữu ý khuyến khích cho cái xấu, cái ác khi viết nhiều về nó (?!). Ai đó nói Hoàng Ngọc Hiến là người nhiệt thành với đổi mới văn học, không sai. Nhưng phải nói cho thấu triệt hơn, công bằng hơn nhà khoa học cần bình tĩnh, khách quan và cả độ lượng, nhất là trong khoa học xã hội - nhân văn. Nói cách khác là trong lĩnh vực VHNT còn có một tiêu chí quan trọng khác là “lý, tình” phải phân minh, hài hòa. Hơn thế “Văn dĩ tải đạo” vốn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học truyền thống thời trung đại Việt Nam. Nó không hề cản trở thành tựu tinh hoa, có giá trị cổ điển. Có lẽ vì giai đoạn đó nhiều nhân tài, chân tài đích đáng.

Nhà nghiên cứu Phong Lê (1938) và tinh thần đổi mới ráo riết trong nghiên cứu, lý luận phê bình văn học là hẳn nhiên không thể chối cãi. Ông là tác giả của hơn 30 công trình chính chủ trong hơn 50 năm cầm bút (1972-2025). Tiêu biểu nhất phải kể đến các tác phẩm Văn học và công cuộc Đổi mới (1994), Hiện đại hóa và Đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ XX (2009), Văn học Việt Nam hiện đại đồng hành cùng lịch sử (2914). Nhà văn mang tinh thần đổi mới văn học nhiệt thành với tư cách một “người làm vườn vĩnh cửu”. Giải thưởng Nhà nước về KHCN, 2005, ông nhận là hoàn toàn xứng đáng. Ai đó nói có thể còn giải thưởng cao hơn dành cho ông - vị Giáo sư khả kính, nguyên Viện trưởng Viện Văn học, nếu như... Nhưng vì hai chữ “nếu như” lịch sử có thể còn thay đổi. Huống chi văn chương!

Tập trung nghiên cứu tinh hoa văn học Đổi mới

Trong nhiều tác phẩm của nhà văn Tôn Phương Lan  (Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Văn chương và cảm nhận, Âm vang từ chiến tranh,... xuất bản trong vòng 20 năm 1998-2019), nổi trội nhất phải kể đến Phong cách nghê thuật Nguyễn Minh Châu (Chuyên luận, 1998), Âm vang từ chiến tranh (phê bình - tiểu luận, 2019), trong đó đã tập trung nghiên cứu văn học Đổi mới, cả về phong trào/nền, cả về tác giả/ tác phẩm tiêu biểu. Nguyễn Minh Châu cùng thời với Xuân Thiều, đều là nhà văn mặc áo lính, đều có công đầu trong đổi mới văn học. Nhưng Nguyễn Minh Châu là “Người mở đường tinh anh và tài năng” nhất trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975. Nghiên cứu tác giả cổ điển (tiêu biểu) sẽ có cơ hội thấu suốt bức tranh và không khí văn học một giai đoạn cụ thể (lấy điểm nói diện). Một công trình khoa học dành riêng nghiên cứu một tác giả không phải là phổ biến. Trong các văn nhân Hà Tĩnh cũng mới chỉ có 5 vị được tôn vinh bằng một/nhiều cuốn sách – Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng Ngọc Phách. Văn phê bình Tôn Phương Lan vừa vững chãi về lý thuyết vừa đạt tới đội tinh tế tong cảm xúc và thể hiện. Từ nghiên cứu một nhà văn tài năng tiêu biểu trong văn học Đổi mới tác giả rút ra được nguyên lý văn hóa là nền tảng của văn học, văn hóa là chân tủy của tài năng nghệ thuật, văn hóa giúp giữ gìn ký ức lương thiện. Văn hóa là tiền đề và động lực phát triển văn học bền vững.

Nghiên cứu thể loại như cách thức/ phương pháp mới tiếp cận tiến trình văn học

Nhà nghiên cứu Hà Quảng với các công trình tâm huyết nghiêng về/dành cho thể loại thơ Nhành hoa bên suối (Phê bình, 2007), Văn chương, một góc nhìn (Lý luận phê bình, 2009), Cảm nhận và suy nghĩ (Lý luận phê bình, 2012),  Hồng Lam - Đất văn chương, đất khoa bảng (Biên khảo, 2012), Văn chương - ký ức và sáng tạo (Lý luận phê bình, 2014), Đến với thơ đương đại (Lý luận phê bình, 2017) và mới nhất Dưới bóng sao Khuê (Lý luận phê bình, 2023). Hà Quảng viết về trường ca khúc chiết và thuyết phục qua tiểu luận Về các khuynh hướng phát triển trường ca (trong sách Tuyển tập lý luận, phê bình văn học 1945-2015, Nxb Hộ Nhà văn, 2015). Lối viết của Hà Quảng nhuần nguyễn giữa lý thuyết và thực tiễn. Văn phong điềm tĩnh, sâu sắc nên có sức thuyết phục cao với văn giới. Trường ca mang tinh thần đại khí của văn học trong những bước ngoặt kỳ vĩ của lịch sử. Trường ca gắn với một thế hệ nhà thơ chống Mỹ “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” từ Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Ngọc Cảnh, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Vương Trọng, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Trần Cương, Trần Anh Thái,...

Lê Thành Nghị tập trung viết về thể loại thơ qua Văn học- sáng tạo và tiếp nhận (1997), Trước đèn... thơ (2005), Còn lại sau ngôn từ (2014), Bóng người trong bóng núi (2017), Cây vườn thức với gió (2021). Ông là nhà văn “2 trong 1” (vừa viết lý luận, phê binh vừa làm thơ). Phê bình thơ của Lê Thành nghị gắn với thế hệ của mình – thế hệ nhà thơ chống Mỹ, từ Phạm Ngọc Cảnh, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duât, Vương Trọng, Anh Ngọc, đến Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Trần Cương, Hoàng Nhuận Cầm,...

Bùi Việt Thắng với các công trình chuyên biệt Bình luận truyện ngắn (1999), Truyện ngắn - Những vấn đề lý uyết vầ thực tiễn thể loại (2000), Bàn về tiểu thuyết (Biên soạn, 2000), Truyện ngắn Việt Nam hiện đại (viết chung với Đinh Trí Dũng, 2018), Thi pháp tiểu thuyết hiện đại (2019), Thi pháp truyện ngắn hiện đại (2020), đã “bấu chặt” lấy thể loại trong quá trình nghiên cứu và viết lý luận phê bình. Tác giả đã  có nhiều nỗ lực trong việc kiến tạo bức tranh văn học hiện đại thông qua những bước đi ngoạn mục của thể loại truyện (truyện ngắn và tiểu thuyết), bởi vì thể loại được quan niệm như là “nhân vật chính” của văn học. Hơn thế văn xuôi được coi là “mặt tiền” của văn học Đổi mới (từ 1986).

Đinh Trí Dũng với hướng nghiên cứu toàn diện văn học hiện đại Việt Nam nhưng vẫn ưu tiên tiếp cận sâu thể loại văn học qua Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (Chuyên khảo, 2005), Truyện ngắn Việt Nam hiện đại (viết chung với Bùi Việt Thắng, 2018), gần đây là Thể ký trong văn học Việt Nam đương đại (Chủ biên, 2020). Thời đại của internet và mạng xã hội dường như mở ra khả năng dung chứa thể ký báo chí và ký văn học. Nhưng lưu giữ trong ký ức người đọc lại là quyền uy của ký văn học với sự đóng góp của các tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Huy Quang,  Minh Chuyên, Hoàng Minh Tường, Xuân Ba, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Hồ Anh Thái, Huỳnh Dũng Nhân, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Doãn Hoàng, Nguyễn Hồng Lam, Nguyễn Ngọc Tư,...

III. KẾT LUẬN: KIẾN TẠO VÙNG ĐẤT SÁNG TÁC VĂN HỌC VÀ ĐỌC VĂN HỌC

Vùng đất sáng tác văn học: Khái niệm “Vùng đất sáng tác văn học” gắn liền với khái niệm “Địa - Văn hóa”. Theo cách diễn tả của Đại thi hào Nguyễn Du thì “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Nhà thơ Hữu Thỉnh có cách hình dung thú vị “Bản sắc Hà Tĩnh độc đáo đến đâu trong kinh tế, trong quân sự, xin sẵn sàng hầu chuyện các bậc cao kiến, riêng trong văn học, tôi muốn xem đó như một trong những nguồn mạch. Giống như triều Trần, vua ở đâu thì triều đình ở đó. Trong văn học, thiên tài ở đâu thì nguồn mạch ở đấy. Hà Tĩnh là một trong những nguồn mạch có sức nuôi dưỡng và nhuần thắm cho cả nền văn học của đất nước” (Văn chương nết đất thông minh tính trời). Vùng đất sáng tác văn học thương gắn với “Vùng đất đọc văn học”. Nó như hai mặt của một tờ giấy. Những không gian địa - văn hóa tạo nên những vùng đất sáng tác văn học như Kinh kỳ (Thăng Long - Hà Nội, bao gồm cả Kinh Bắc), Thừa Thiên Huế, Sài Gòn - Gia Định xưa (nay là Tp. HCM) vẫn giữ được tinh thần di sản. Nhưng có những không gian địa văn hóa khác tình hình không đáng lạc quan như truyền thống vốn có. Có những không gian địa văn hóa khác đang lên như Hải Phòng - Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế. Xứ Nghệ, cũng như một vài địa phương khác như trục Nam Định - Hà Nam, làm tốt bảo lưu truyền thống nhưng phát triển truyền thống thì đang khó khăn.

Vùng đất đọc văn học thường gắn với vùng đất sáng tác văn học. Nhưng trong thời đại Internet và mạng xã hội thì tình hình người đọc bị “chia rẽ” càng ngày càng trầm trọng hơn. Văn học mạng đã xóa nhà càng ngày càng rõ “vùng đất đọc văn học” vì trên nền một thế giới phẳng, số hóa; cũng vì thế các ranh giới địa lý - văn học ngày càng giãn nở, phì đại; các khái niềm vùng miền (tiểu vùng) bị thu hẹp khi toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng bởi “trái đất là ngôi nhà chung của thế giới”. Xứ Nghệ còn đưọc xếp hạng là vùng đất đọc văn học hay không, cần điều tra xã hội học nghệ thuật đày đủ mới có thể kết luận thuyết phục trên cơ sở khoa học.

Tự hào về truyền thống nhưng không được ngủ quên trong hào quang của quá khứ. Bảo tồn giá trị truyền thống nhưng phải phát triển theo tinh thần tiếp biến văn hóa, phát triển bền vững, hội nhập sâu rộng gia, quốc tế nhưng không vong bản...Tất cả, đều là những nhiệm vụ chiến lược dài lâu của văn giới Việt Nam nói chung, Hà Tĩnh nói riêng. Là người con của quê hương Hà Tĩnh, tôi tin tưởng một cách vững chắc và sâu sắc văn hóa Việt Nam, văn hóa Hồng Lam sẽ là nền tảng phát triển văn học nghệ thuật Hà Tĩnh trong kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc và quê hương xứ sở thân yêu./.

Hà Nội - Hà Tĩnh, tháng Ba, năm Ất Tỵ

B.V.T

. . . . .
Loading the player...