LTS: Thực hiện Kế hoạch số 237/KH-TU ngày 06/2/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc Tổ chức các hoạt động tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 - 30/4/2025), kể từ số 212 tháng 4-2024, Tạp chí Hồng Lĩnh đã xuất bản 10 số thực hiện Chuyên mục “50 năm nền văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh”, giới thiệu các tác giả là những văn nghệ sĩ tiêu biểu đã có đóng góp quan trọng trong tiến trình 50 năm VHNT Hà Tĩnh sau ngày đất nước thống nhất. Tạp chí Hồng Lĩnh Số đặc biệt - Số 223+224 (tháng 3+4/2025) kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước và Tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025) dành thời lượng đặc biệt để giới thiệu các bài viết của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình và sáng tác của các văn nghệ sĩ qua các thế hệ đã đạt giải cao của Trung ương, khu vực, địa phương; những tác giả đã có nhiều gắn bó, cống hiến cho VHNT tỉnh. Xin trân trọng giới thiệu!
Những nét chính của văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh (1975 - 2025)
ĐỨC PHÚC
Ngày 30/4/1975, sau bao năm chia cắt, đất nước Việt Nam đã trở về là một. Một kỷ nguyên mới được mở ra: kỷ nguyên hoà bình, độc lập, thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bước ngoặt vĩ đại này đã làm thay đổi mọi lĩnh vực đời sống xã hội và tác động sâu sắc đến cảm giác, cảm xúc, tư tưởng nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sĩ.
Hơn mười năm sau, năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới. Chính sách đổi mới đã mang tới cho mỗi văn nghệ sĩ một chiếc chìa khoá để mở tung mọi cánh cửa trong tâm hồn, trong tư duy, trong cách nhìn, trong cảm hứng sống và hành động của mình. Tiếp sau đó, Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết hợp tác chiến lược toàn diện. Bản ký kết đã đưa đời sống chính trị Việt Nam vào dòng chảy chung của đời sống chính trị thế giới. Chúng ta đã tạo ra những giá trị riêng biệt nhưng lại mang tính toàn cầu, đóng góp thực sự vào những giá trị chung của nhân loại.
Nhà nghiên cứu văn hóa Thanh Minh và các văn nghệ sĩ gặp gỡ,
trao đổi với Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Xuân Linh, Chủ tịch UBHC tỉnh Hà Tĩnh Nguyễn Tiến Chương những ngày đầu mới thành lập Hội. Ảnh: Tư liệu
Song song với sự chi phối của lịch sử - xã hội, văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh còn chịu sự tác động của những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội diễn ra trên địa bàn: Thiên tai bão lũ, sản xuất lớn; đặc biệt là sáp nhập, chia tách tỉnh...
Hiện thực đời sống đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới trải nghiệm, cảm giác, cảm xúc, tư tưởng nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sĩ, làm hình thành những đặc điểm cơ bản của văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh giai đoạn 1975-2025.
1. Về tổ chức: Sau khi Trung ương thành lập Hội văn nghệ Việt Bắc, Khu Bốn thành lập Chi hội văn nghệ Liên khu Tư, Ty thông tin tuyên truyền văn nghệ Hà Tĩnh thành lập Phân hội văn nghệ Hà Tĩnh. Các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ trong Phân hội tổ chức Ban vận động thành lập Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh. Tháng 1 năm 1969, Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh chính thức được thành lập trực thuộc Ty Thông tin Hà Tĩnh. Từ đó đến nay, không kể thời gian thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, (1976 - 1991), đã có 8 lần đại hội Hội liên hiệp văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh. Đến thời điểm này, Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh có 251 hội viên, thuộc 9 chuyên ngành: Văn, Thơ, Lý luận phê bình, Văn nghệ dân gian, Sân khấu và Biểu diễn, Âm nhạc, Nhiếp ảnh, Mỹ thuật, Kiến trúc.
2. Về đội ngũ: Dựa vào quá trình hoạt động sáng tạo, có thể xếp đội ngũ sáng tác văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh vào ba 3 thế hệ nối tiếp nhau:
- Thế hệ thứ nhất: Chủ yếu là những trí thức sinh ra và lớn lên trong chế độ cũ, có học vấn uyên thâm, gia nhập các tổ chức cách mạng, hoạt động vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Các văn nghệ sĩ thuộc thế hệ này là tấm gương sáng về nhân cách, về sự nghiêm túc trong lao động nghệ thuật.
- Thế hệ thứ 2: Xuất hiện từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Từ thân phận người dân nô lệ, đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc thế hệ thứ hai này chuyển sang vị thế công dân của đất nước tự do, độc lập. Do đó, họ có tư tưởng, tình cảm nhất quán, có nguyên tắc, định hướng sáng tác rõ ràng, thể hiện thiên chức của nhà văn trước đất nước và Nhân dân. Văn nghệ sĩ Hà Tĩnh thuộc thế này được tắm mình trong dòng chảy văn chương yêu nước và cách mạng, gắn bó với hiện thực phong phú qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, miệt mài lao động sáng tạo, làm nên dòng văn học, nghệ thuật về chiến tranh cách mạng, trong đó nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa nhân văn thấm đẫm bản sắc văn hóa Hà Tĩnh.
- Thế hệ 3: Xuất hiện sau Đại thắng mùa xuân 1975. Thế hệ này là trụ cột của văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh, 50 năm sau ngày thống nhất đất nước. Họ sống và lao động sáng tạo trong một hiện thực phong phú và vô cùng sôi động. Đấy là hiện thực giai đoạn hậu chiến ngổn ngang với những con người chịu thua thiệt và đầy nỗi niềm; hiện thực thời bao cấp, cơ chế thị trường gian nan, thiếu thốn; hiện thực của bước đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội khó khăn, hiện thực thời đổi mới, hội nhập, kiến tạo quê hương, đất nước,
Đại hội VI của Đảng, tháng 12 năm 1986, mở rộng cánh cửa cho tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật. Văn nghệ sĩ Hà Tĩnh đã tiếp nhận, giữ gìn, phát huy phẩm tính, tài năng của của các thế hệ đi trước, xây dựng một đời sống văn học nghệ thuật sinh động, giàu bản sắc. Tác phẩm của các văn nghệ sĩ giai đoạn này đa dạng về đề tài, thể loại, biên độ phản ảnh được mở rộng và xuyên suốt là chất trữ tình, tinh thần lạc quan, tình yêu tha thiết cuộc đời, con người.
Không khó khăn để nhận diện và đánh giá sự quan tâm về đề tài chiến tranh được văn nghệ sĩ thể hiện dưới một góc nhìn mới trong tác phẩm của bất kỳ loại hình, thể tài nào. Hiện thực chiến tranh với tất cả sự đa diện, phong phú và phức tạp của nó đã từng bước được khám phá. Cũng như thế, dễ đọc ra cảm hứng yêu nước trong văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh 50 năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỷ XXI thể hiện trước hết ở tình cảm của người cầm bút với quê hương, xứ sở. Ấy là một thứ tình cảm thiêng liêng, máu thịt, cho thấy sự gắn bó giữa con người với nguồn cội một cách hết sức mật thiết. Từ tình cảm sâu đậm thiêng liêng ấy, Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh có sức mạnh xoáy sâu vào đời sống riêng tư của mỗi con người, mà trước hết là cái riêng của chính chủ thể sáng tạo. Với đời thường, với số phận riêng của mỗi cá nhân trong cộng đồng là nét mới của văn học nghệ thuật Hà Tĩnh 50 năm qua.
3. Những thành tựu của các loại hình văn học, nghệ thuật.
Với bất cứ nền văn học nghệ thuật nào, những thành công và hạn chế bao giờ cũng gắn với các loại hình tác phẩm. Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh 50 năm cuối thế kỷ cũng không ra ngoài quỹ đạo đó. Nhìn một cách khái quát, các loại hình văn học nghệ thuật Hà Tĩnh giai đoạn này đều có những thành tựu và hạn chế nhất định.
3.1. Văn xuôi
a. Tiểu thuyết
Phải nói ngay rằng tiểu thuyết là một trong những thể loại ít phát triển nhất trong văn học Hà Tĩnh chưa nói đến thành tựu. Lịch sử phát triển thể loại này cho thấy tiểu thuyết đòi hỏi tư tưởng độc đáo, tài năng, vốn sống, kĩ thuật, cộng với một quá trình lao động khổ ải, miệt mài của nhà văn. Đó là những điều rất thiếu ở giới cầm hút địa phương. 50 năm, 1975-2025, ngoài những tiểu thuyết của các nhà văn quê Hà Tĩnh ở ngoài Hà Tĩnh viết về đất và người Hà Tĩnh trong chiến tranh, trong xây dựng cuộc sống, tiểu thuyết của các cây bút Hà Tĩnh rất ít xuất hiện trên văn đàn. Được coi là thể loại xương sống của văn xuôi, nhưng thể loại tiểu thuyết ở Hà Tĩnh là một khoảng trống chưa có hy vọng bù đắp.
b. Truyện ngắn
Truyện ngắn là thể loại chủ công trong văn xuôi Hà Tĩnh thời gian qua. Bất cứ một người viêt văn xuôi nào cũng đều từng thử bút ở thể loại này, và có nhiều người đã thành công, tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Truyện ngắn Hà Tĩnh khá phong phú về hiện thực phản ảnh, đem đến cho người đọc một sự hình dung rõ nét về vùng đất và con người Hà Tĩnh trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, chống thiên tai và xây dựng, kiến tạo quê hương.
Về mặt bút pháp nghệ thuật, truyện ngắn Hà Tĩnh đã cố gắng bắt kịp với nhịp độ đổi mới của thể loại này trong văn học nước nhà. Những cách tân đã bước đầu thu được những hiệu quả rõ nét. Cuộc sống đã được tiếp cận dưới nhiều góc nhìn khác nhau, cảm hứng sáng tạo đa dạng, tạo nên sự phong phú trong nội dung tác phẩm. Sự thay đổi điểm nhìn, thay đối vai trần thuật cũng đã được vận dụng linh hoạt, tạo cho tác phẩm âm hưởng đa thanh, và người đọc có được sự tự do trong tiếp nhận.
Trong bức tranh tổng thể của văn xuôi, không thể không nói đến những tập truyện viết cho thiếu nhi. Cũng như tình hình chung của văn học cả nước, bộ phận này trong văn học Hà Tĩnh còn mỏng, chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của bạn đọc nhỏ tuổi.
3.2. Ký
Tuy không phát triển mạnh như truyện ngắn, nhưng 50 năm qua đã xuất hiện nhiều tập bút ký, phóng sự. Với ưu thế của thể loại, ký Hà Tĩnh đã bám sát thực tế, phản ánh nhanh, kịp thời các mặt trong đời sống ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những bút ký, những phóng sự nóng ấm hơi thở thực tế cuộc đời, nhìn chung ký Hà Tĩnh vẫn còn lẫn những tác phẩm nặng tính báo chí, thiếu vắng những trang viết giàu chất văn học.
Nhận xét về văn xuôi Hà Tĩnh Giáo sư Phong Lê viết: “Dường như nguồn mạch trữ tình vốn lúc nào cũng dào dạt trên đất Lam Hồng, vẫn không chút nào vơi cạn khi chuyển sang thế kỷ XX, XXI để làm nên dấu ấn của Xứ Nghệ (tên gọi chung của Nghệ Tĩnh) trong đó không phải tinh tế lắm cũng nhận ra dấu ấn riêng của Hà Tĩnh, dải đất trải từ bờ Nam sông Lam đến chân Đèo Ngang. Nơi đã làm nên sự khởi động và đưa lên đỉnh cao dòng văn trữ tình- lãng mạn”(1)
3.3. Thơ
Trong văn học Hà Tĩnh giai đoạn 1975 - 2025, lực lượng sáng tác thơ đông đảo và có nhiều thành tựu. Trong số các hội viên ngành văn học của Hội Văn nghệ Hà Tĩnh, hội viên chuyên ngành Thơ chiếm tỉ lệ cao với nhiều thế hệ kế tiếp nhau. Thơ Hà Tĩnh 50 năm qua đã hoà nhịp được với nền thơ cả nước. Bắt rễ trên vùng đất văn vật giàu truyền thống văn hoá, thơ Hà Tĩnh vừa tiếp nối nguồn mạch truyền thống, vừa có những cách tân theo hướng hiện đại. Điều đáng mừng là thơ đã trở về với tiếng nói riêng tư, thầm kín nhất của mình. Ý thức cá nhân của chủ thể sáng tạo đã được đề cao, mở ra cho thơ hướng phát triển đúng đắn, phù hợp với đặc trưng thể loại. Nếu trước đây, trữ tình chính trị, trữ tình công dân giữ vị trí độc tôn, thì giờ đây bên cạnh những cảm xúc ấy, trữ tình riêng tư đã có chỗ đứng chính đáng trong thơ. Ý kiến khẳng định: “Chưa bao giờ chúng ta chứng kiến tâm hồn con người Việt Nam mở rộng tất cả các chiều kích như lúc này” (Lời giới thiệu tuyển tập 100 bài thơ hay, Nxb Trẻ, 1993) cũng hoàn toàn đúng với tình hình thơ Hà Tĩnh 50 năm qua.
“Phải chăng thơ Hà Tĩnh đằm thắm tình quê hương, sâu nặng tình đời và canh cánh bên lòng thân phận con người ở quê nhà và trong lòng thời đại. Chắc hẳn thơ Hà Tĩnh đã tiếp thu được tinh thần nhân bản sâu đậm của giống nòi” (Nhà thơ Huy Cận) (2)
3.4. Nghiên cứu, Lý luận phê bình
Là một tỉnh lẻ xa các trung tâm văn hoá, xa các trường đại học, lực lượng cầm bút ở chuyên ngành này tại địa phương rất mỏng. Số người gắn bó với nghiệp nghiên cứu, phê bình không nhiều. Sở dĩ như vậy bởi làm lý luận phê rất khó, nó đòi hỏi nhiều điều kiện: trình độ học vấn, khả năng nắm bắt thông tin trong và ngoài nước, vốn tư liệu, trình độ thẩm định, đánh giá công trình văn học nghệ thuật… những điều rất khó được đáp ứng. Cho nên phần lớn người viết phê bình ở Hà Tĩnh đều trong tình trạng nghiệp dư. Không có kế hoạch dài hơi. Không bắt kịp thực trạng sáng tác trong địa phương mình chứ chưa nói đến tình hình văn học trong nước và quốc tế.
Thành công hơn cả là mảng nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, di sản Hán Nôm. Trước sự phong phú, đa dạng, giàu bản sắc của di sản văn hóa, đội ngũ hoạt động văn hóa Hà Tĩnh đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian có giá trị, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa quê hương.
3.5. Âm nhạc: Là một loại hình nghệ thuật có truyền thống của Hà Tĩnh. Từ kho tàng văn nghệ dân gian, với các làn điệu cổ truyền độc đáo, giàu bản sắc: Ví giặm, Ca trù, Sắc bùa, Hò, Chèo, Xẩm… Âm nhạc hiện đại Hà Tĩnh đã phát triển mạnh trên nền dân gian, mang âm hưởng dân gian tạo nên bản sắc riêng. Từ ca từ, giai điệu, khúc thức, âm nhạc Hà Tĩnh đã phản ảnh được những nét nổi bật của một thiên nhiên khắc nghiệt, một hiện thực gian khó và sức dẻo dai, bền bỉ, cùng tình cảm nồng nàn, sâu lắng của nhân dân Hà Tĩnh trong hàn gắn vết thương chiến tranh, chống thiên tai, chống đói nghèo, kiến tạo, xây dựng cuộc sống mới. Ở đây cần nói tới vai trò của các nghệ nhân dân gian, các Câu lạc bộ Ví - Giặm, và quần chúng nhân đã tạo nên một đời sống âm nhạc trong cộng đồng dân cư đa dạng, phong phú có sức lan tỏa mạnh mẽ. Có thể nói âm nhạc đương đại Hà Tĩnh thời gian gần đây đã mở rộng chiều kích tâm hồn người Hà Tĩnh trước vận hội kỷ nguyên mới, kỷ nguyên sáng tạo, hội nhập, phát triển, thịnh vượng.
3.6. Sân khấu, biểu diễn: Từ lâu đời Dân ca Nghệ Tĩnh đã là thổ sản đặc biệt, là nền tảng cho sân khấu phát triển.
Những năm đầu sau chiến tranh chống Mỹ, 1975, loại hình kịch nói nở rộ với những kịch bản phản ảnh sát sườn đời sống: những tiêu cực xã hội thời hậu chiến, những góc khuất của con người. Nhưng do nhiều điều kiện về đội ngũ diễn viên, về cơ sở vật chất, nên hầu hết chỉ dừng lại ở kịch bản, không có điều kiện dàn dựng, công diễn phục vụ công chúng. Theo dòng chảy của thời gian và với nhu cầu đời sống cùng cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ, từ những năm 1970 “Dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” được tiếp thu, phát triển, trở thành một loại hình nghệ thuật diễn xướng có giá trị, mang đậm bản sắc quê hương: Tổ khúc dân ca, trích đoạn dân ca, hoạt cảnh dân ca, ca kich ngắn, kịch hát dân ca với các làn điệu hò, ví giặm, sa mạc, ngâm thơ, nói vần, hát sử trống quân, hát sắp, ngâm vỉa… đã tạo nên một đời sống văn hóa tinh thần đặc sắc, rộng khắp trên mọi miền quê.
3.7. Mỹ thuật: So với các loại hình nghệ thuật khác, Mỹ thuật Hà Tĩnh phát triển chậm. Trước năm 1975, trong chiến tranh chống Mỹ, Mỹ thuật Hà Tĩnh, do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tác phẩm nặng về tuyên truyền, đường biên giữa tranh cổ động với tranh nghệ thuật mờ nhòe. Sau năm 1975, nhất là từ ngày Hội văn nghệ Hà Tĩnh ra đời, các tác giả Mỹ thuật mới được quy tụ và cũng từ đấy các thế hệ họa sĩ nối tiếp nhau xuất hiện. Ngoài những tác phẩm về đề tài chiến tranh với góc khai thác mới của các họa sĩ bước ra từ chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, các họa sĩ xuất hiện sau năm 1975, được đào tạo cơ bản, có cách nhìn mới hiện thực cuộc sống, Mỹ thuật Hà Tĩnh có bước phát triển nhanh về đội ngũ, về chất lượng tác phẩm. Tuy vậy so với mặt bằng chung Mỹ thuật đương đại, mỹ thuật Hà Tĩnh còn thiếu vắng họa sĩ có tài, vắng bóng thể tài điêu khắc, chất liệu tác phẩm và cả đề tàì, vấn đề của hiện thực cuộc sống chưa đa dạng, phong phú.
3.8. Nhiếp ảnh: Với thế mạnh của loại hình, và truyền thống nhiếp ảnh thời chống Mỹ, nhiếp ảnh Hà Tĩnh, sau năm 1975, đã tạo nên một bức tranh phong phú, chân thực, sinh động về con người và đất nước Hà Tĩnh. Với tính ưu việt của loại hình, ảnh nghệ thuật và ảnh thời sự Hà Tĩnh đã khắc họa khá sâu đậm chân dung con người và cuộc sống quê hương Hà Tĩnh qua các thời kỳ lịch sử: thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội; thời kỳ bước đầu đổi mới; thời kỳ thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh; thời kỳ trở lại đơn vị hành chính tỉnh Hà Tĩnh với những khó khăn và quyết tâm, khát vọng đổi mới xây dựng quê hương và thời kỳ hội nhập, phát triển bền vững. Qua hình ảnh, màu sắc, ánh sáng… ta bắt gặp những con người Hà Tĩnh khỏe mạnh, khí khái, ham học, nghĩa tình, giàu khát vọng… thuộc nhiều thế hệ, và cả những nét đặc trưng của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực đời sống ở làng quê, ở miền núi, ở đồng bằng, ngoài biển cả… Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, ảnh nghệ thuật và ảnh thời sự Hà Tĩnh đã góp phần quan trọng trong khắc họa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đời sống, con người Hà Tĩnh.
50 năm, sau ngày thống nhất đất nước (1975-2025), các thế hệ văn nghệ sĩ Hà Tĩnh đã xây dựng được một nền văn học, nghệ thuật dày đặn. Hàng trăm tác phẩm văn, thơ, văn nghệ dân gian, nghiên cứu, lý luận phê bình, âm nhạc, hội họa, sân khấu, nhiếp ảnh, múa, kiến trúc đã phản ảnh sinh động cuộc sống và tâm hồn người Hà Tĩnh thời hậu chiến, thời kinh tế thị trường, thời chiến tranh biên giới phía Bắc, phía Nam, thời đổi mới kiến tạo cuộc sống, phát triển, hội nhập. Đội ngũ và tác phẩm văn học, nghệ thuật Hà Tĩnh là một sự nối dài, càng về sau càng dày dặn, càng đông đảo, hội nhập cùng văn học, nghệ thuật nước nhà, vững vàng bước vào thời kỳ tới. Thời kỳ được định danh là “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” (Tổng Bí thư Tô Lâm)./.
Tháng 3/2025
Đ.P
_________________
(1),(2): Rút trong:Thơ Hà Tĩnh và Văn Hà Tĩnh; Hội VHNT và Sở VHTT;XB;2000)