Tạp chí Hồng Lĩnh số đặc biệt 223+224/2025 trân trọng giới thiệu bài viết “Văn nghệ dân gian Hà Tĩnh trước xu thế hội nhập và nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa” của Nhà nghiên cứu Văn nghệ dân gian Phan Thư Hiền
Hà Tĩnh là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hoá, cách mạng. Từ cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước, người dân nơi đây đã sáng tạo và lưu giữ được một kho tàng di sản văn hóa dân gian vô cùng phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc địa phương.
Hà Tĩnh vinh dự có “Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh”1 và “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ”2 được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; Ca trù3 được ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp, cùng với 03 tư liệu ký ức Châu Á, Thái Bình Dương là Mộc bản Trường Lưu, Hoàng Hoa sứ trình đồ và Bộ sưu tập tư liệu Hán Nôm làng Trường Lưu. Ngoài ra, Hà Tĩnh có gần 100 lễ hội gắn với các trò diễn dân gian rất sinh động, trong đó có 05 lễ hội được xếp hạng Di sản Văn hoá phi vật thể cấp Quốc gia, đó là: Lễ hội truyền thống Hải Thượng Lãn ông; lễ hội đền Chiêu Trưng, lễ hội Cầu ngư - Hò Chèo cạn Cẩm Nhượng và lễ hội cầu ngư làng Cam Lâm xã Xuân Liên.
Và trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đồ sộ nói trên, các loại hình diễn xướng dân gian (dân ca, dân nhạc, dân vũ)4 được xem là “tài sản”, “thổ sản”, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của cộng đồng nhân dân nơi đây. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, những món ăn tinh thần này đã đồng hành cùng người dân, trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tinh thần, hình thành nên tính cách, tâm hồn của các thế hệ người dân Hà Tĩnh. Những làn điệu dân ca cổ truyền (ví, giặm, hò, vè, ca trù, sắc bùa, lẩy Kiều, hát văn…) vừa trữ tình, sâu lắng, vừa sôi nổi, rộn ràng vẫn đang được quần chúng nhân dân gìn giữ trong sinh hoạt cộng đồng. Thông qua các hoạt động trình diễn văn nghệ dân gian, đã hình thành nên đạo lí và những phong tục tập quán tốt đẹp, tạo nên tâm hồn và cốt cách con người Hà Tĩnh. Ðồng thời làm cho giá trị các loại hình di sản văn hóa phi vật thể luôn được kế thừa và phát huy trong đời sống đương đại.
Thời gian qua, lấy mốc 50 năm lại đây (1975-2025) bằng những nỗ lực không ngừng, đội ngũ cán bộ làm công tác văn nghệ dân gian ở tỉnh Hà Tĩnh đã có những đóng góp tích cực cho việc sưu tầm, nghiên cứu các loại hình văn nghệ dân gian trên địa bàn Nghệ Tĩnh nói chung, Hà Tĩnh nói riêng. Tiêu biểu như: khôi phục các không gian diễn xướng Dân ca Ví Giặm, Hò, Vè, Nghệ Tĩnh; Ca trù, Sắc bùa, Trò Kiều, Lẩy Kiều, Chầu văn, Hát ru; dân ca dân tộc Chứt; Lễ hội Chăm - Cha - bới (mừng cơm mới của dân tộc thiểu số ở xã Hương Liên, huyện Hương Khê); Lễ hội Cầu ngư và diễn xướng Hò Chèo cạn Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên; Lễ hội Sỹ - Nông - Công - Thương ở Xuân Thành, Nghi Xuân; phối hợp với Sở VHTT&DL tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp điều tra, sưu tầm, khảo cứu văn nghệ dân gian và một số Hội thảo như: Bảo tồn và phát huy các giá trị của Ca trù; ứng dụng đưa Dân ca Ví Giặm vào tua tuyến du lịch; Giải pháp đưa Dân ca Nghệ Tĩnh vào trường học…; chủ trì thực hiện 05 đề tài khoa học cấp tỉnh gồm: “Dân ca Nghệ Tĩnh”; “Lễ hội dân gian Hà Tĩnh”,“Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của Ca trù Hà Tĩnh”, “Nghiên cứu, ứng dụng các loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc ở Hà Tĩnh, nhằm phát triển du lịch” và “Nghiên cứu các giá trị tiêu biểu mang tính toàn cầu của Di sản Văn hóa làng Trường Lưu nhằm phát triển kinh tế, xã hội”; phát hiện, bồi dưỡng và hướng dẫn làm hồ sơ trình Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho trên 80 nghệ nhân có thành tích thực hành diễn xướng và truyền dạy Dân ca Ví Giặm, Ca trù, Trò Kiều, Chầu văn…; tham gia cùng với Viện Âm nhạc, Viện Văn hóa nghệ thuật, Trung tâm Lưu trữ quốc gia lập hồ sơ trình UNESCO công nhận các danh hiệu di sản văn hóa phi vật thể cấp Thế giới; xây dựng và sản xuất 10 đĩa DVD về Ví Giặm, Trò Kiều, Hát thơ Kiều, Ca trù, Sắc bùa…; phối hợp Đài PTTH tổ chức chuyên đề “Diễn đàn văn hóa dân gian Hà Tĩnh thời kỳ hội nhập”, 20 số “Dân ca Nghệ Tĩnh” và hàng chục phóng sự truyền hình về thực trạng hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian ở Hà Tĩnh cùng nhiều bài viết khác trên báo, tạp chí trung ương và địa phương. Đặc biệt, một số anh chị em trong lĩnh vực văn nghệ dân gian đã xuất bản được nhiều tập sách có giá trị về văn nghệ dân gian. Tiêu biểu như: Thái Kim Đỉnh với“Làng cổ Hà Tĩnh”; “Bách thần sự tích”, “Chùa cổ Hà Tĩnh”, “Lễ hội dân gian Hà Tĩnh”; Võ Hồng Huy với “Non nước Hồng Lam”, “An tĩnh sơn thủy vịnh’ (biên dịch thơ Nguyễn Thúc Hạp); Phan Thư Hiền với “Giai thoại Nguyễn Công Trứ”, “Ca trù Hà Tĩnh trong nôi Ca trù người Việt”; “Tri thức dân gian của người Nghệ Tĩnh về chuyện sinh đẻ”, “Ứng dụng các loại hình diễn xướng dân gian ở Hà Tĩnh vào phát triển du lịch”; “Các vùng dân ca tiêu biểu ở Hà Tĩnh”, “Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh”, “Kinh nghiệm dân gian của cư dân vùng biển Hà Tĩnh về đánh bắt và chế biến hải sản”, “Ca trù Cổ Đạm xưa và nay”, “Danh nhân, nhà nho Xứ Nghệ với dân ca Ví, Giặm…; Đặng Thúy Hằng với “Văn hóa dân gian vùng biển Hà Tĩnh trong xu thế hội nhập”; Phạm Quang Ái với “Dòng họ Nguyễn Tiên Điền qua gia phả và tư liệu điều tra, điền dã”; Trần Hồng Dần với “Văn bia Hà Tĩnh”, “Đất và người Đức Thọ”…; Lê Văn Tùng với“Làng cổ Hương Nao”, Võ Giáp với “Xã cổ Nghi Xuân”; Đặng Viết Tường với “Miền đất hứa”, “Giữ lửa đam mê”; Nguyễn Trọng Tuấn với “Chung lời hẹn ước”,”Đôi bờ ví giặm nên duyên”, “Trang Kiều vọng mãi ngàn năm”, “Ví Giặm hồn quê”…
Tiết mục không gian diễn xướng Ví, giặm nên duyên. Ảnh: Đậu Hà
Tại các cộng đồng, nhiều nghệ nhân với ý thức và tâm huyết gìn giữ vốn cổ, đã mở lớp truyền dạy đàn, hát cho con em trong làng và các vùng lân cận. Tiêu biểu như các nghệ nhân: Trần Khánh Cẩm, Vũ Thanh Minh, Nguyễn Ban, Nguyễn Trọng Tuấn, Hoàng Bá Ngọc, Trương Quốc Đính, Đặng Minh Nguyệt, Nguyễn Viết Hoài, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Duyễn, Võ Kiều Thanh, Lê Hoài Thanh, Trần Hoàng, Trần Minh Chính… Hàng trăm câu lạc bộ dân ca ví, giặm lần lượt ra đời, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân.
Những cố gắng của anh chị em làm công tác văn nghệ dân gian ở Hà Tĩnh và một số kết quả đã đạt được như đã nói trên là rất đáng trân trọng, nhưng còn rất khiêm tốn đối với việc bảo tồn và phát huy những tài sản của cha ông để lại trên mảnh đất được xem là giàu truyền thống văn hóa. Và bên cạnh những thuận lợi, lĩnh vực văn nghệ dân gian Hà Tĩnh đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Đó là: Đội ngũ hội viên chuyên nghành và lực lượng tác nghiệp quá mỏng; một số nhà nghiên cứu có trình độ và tâm huyết với nghề như các ông: Thái Kim Đỉnh, Võ Hồng Huy, Trần Quang Tảo… thì đã về với thiên cổ. Lớp kế cận như các ông Lê Nghi, Trần Hồng Dần, Lê Anh Tuấn… hầu hết đều đã tuổi cao, sức yếu. Trong khi đó, lớp trẻ còn ít tiếp cận và không mặn mà với những giá trị văn hóa văn nghệ dân gian của cha ông ta, tạo ra sự hụt hẫng trong lực lượng sưu tầm, nghiên cứu về lĩnh vực VNDG trên địa bàn. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cũng như ngành Văn hóa, thể thao & Du lịch, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật của tỉnh chưa thực sự quan tâm đầu tư tương xứng cho lĩnh vực này. Cụ thể:
- Công tác sưu tầm, nghiên cứu, xuất bản về văn nghệ dân gian chưa được đầu tư tương xứng; đa số hội viên, cộng tác viên của Chi hội phải tự túc phương tiện đi lại, thiết bị thu âm, ghi hình để đi sưu tầm; bỏ tiền túi để thuê đánh vi tính và tự xuất bản các ấn phẩm liên quan;
- Một số loại hình diễn xướng dân gian đang có nguy cơ thất truyền như: Hát Ả đào: Chi Bông, Khang Quý, Hưng Nhân, Du Đồng, Như Sơn; Hò Thạch Khê; Ví phường nón Tiên Điền, Ví sông La, Ví phường vải Trường Lưu; Sắc bùa Can Lộc, Đức Thọ, Kỳ Anh, Hát Tuồng cổ Tường Xuân…
- Chế độ đãi ngộ cho các nghệ nhân dân gian trong công tác truyền dạy các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian chưa được đưa vào chính sách hỗ trợ của tỉnh, dẫn tới tình trạng một số nghệ nhân cao tuổi không đủ sức khỏe để truyền dạy cho lớp trẻ.
- Hàng chục lễ hội dân gian gắn với lễ nghi tín ngưỡng, phong tục tập quán bị rơi vào quên lãng hoặc hoặc bị “biến tướng”, thương mại hóa, xa rời với sinh hoạt của quần chúng nhân dân và thiếu sự phối hợp của cộng đồng. Đó là: Hội rước thần và trò diễn “Triệt Giang đoạt A Đẩu” và Hát tuồng bội ở Trường Xuân; Hội hát ghẹo và tục ăn cá gỏi ở Mỹ Xuyên; Lễ Trung nguyên và trò diễn“Mục Liên cứu mẹ” ở Hội Thống; Hội khai canh và trò “diễn hoa” ở Phan Xá…
Ngoài ra, nhiều loại hình âm nhạc, mỹ thuật, múa, trò chơi, ẩm thực, tri thức… dân gian đều nằm trong tình trạng mai một, biến dạng và nguy cơ thất truyền. Đáng lo ngại hơn, quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh chóng đã làm cho môi trường tự nhiên bị suy thoái và những giá trị văn hóa văn nghệ dân gian không còn được bảo lưu trọn vẹn, tính cố kết cộng đồng bị phá vỡ. Những khu đô thị mới mọc lên đã xóa đi những thiết chế văn hóa làng cùng với những “gốc đa, bến nước, sân đình” - không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Những khó khăn và thách thức nói trên, khiến cho nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể đang còn tiềm ẩn trong nhân dân chưa khai thác một cách tối đa, đã để lại khoảng trống khó lấp đầy trong kho tàng văn nghệ dân gian ở Hà Tĩnh. Và những tài sản vô giá của bao thế hệ đã sáng tạo, gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác không được bảo lưu trọn vẹn, mà có xu hướng ngày một vơi đi.
Văn nghệ dân gian là một nguồn lực tinh thần sống động, có bề dày về thời gian tồn tại, nhưng lại vô cùng mong manh, bởi phải chịu nhiều tác động. Hà Tĩnh chắc cũng nằm trong tình trạng chung của các tỉnh, thành cả nước, văn hóa văn nghệ dân gian đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, anh chị em hội viên tuy đã hết sức cố gắng, nhưng vẫn cảm thấy “lực bất tòng tâm”.
Việc quan tâm sâu sát của các cấp, các ngành sẽ là động lực thúc đẩy để anh chị em Chi hội trưởng nói chung, hội viên nói riêng phấn đấu không mệt mỏi để cho các giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian sẽ không bao giờ biến mất hoặc mai một trước xu thế hội nhập và phát huy những giá trị tích cực trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay./.
P.T.H
__________________
1. Cùng với tỉnh Nghệ An;
2. Liên quan đến một số tỉnh, thành ở phía Bắc;
3. Cùng chung di sản với 15 tỉnh, thành trong cả nước.
4. Do giới hạn bài viết nên xin phép chỉ đề cập đến phạm vi hẹp này.