Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu tham luận “Nghệ thuật, con người và kỷ nguyên mới” của Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại tại Hội thảo khoa học 50 năm nền Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)

Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại với tham luận “Nghệ thuật, con người và kỷ nguyên mới”
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta: Chế độ người bóc lột người hoàn toàn bị xóa bỏ; nhà nước của dân, do dân, vì dân được thiết lập; con đường tiến lên là độc lập dân tộc gắn với CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc; một đảng được Bác Hồ sáng lập và rèn luyện.
Nhưng nhà nước nhân dân chưa thành lập được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Chúng ta phải trải qua một cuộc kháng chiến chín ngàn ngày không nghỉ, lấy tầm vông chọi với đại bác; rồi tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 20 năm. Hai, ba thế hệ, lớp cha trước, lớp con sau chung một khúc quân hành, vượt Trường Sơn vạn dặm, băng qua những biển lửa na-pan; những trận bom B 52 rải thảm để đến ngày toàn thắng 30-4-1975, quét sạch mọi bóng xâm lăng, thu non sông về một mối. Một kỷ nguyên mới, hay chính xác hơn là một thời kỳ mới: cả nước cùng tiến lên CNXH bắt đầu từ đây.
Song cũng từ đây, hậu quả của chiến tranh, hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu cộng với sự bao vây, cấm vận gần 20 năm của chủ nghĩa đế quốc làm cho nhân dân ta rơi vào một cuộc sống vô cùng nghiệt ngã, khốc liệt không kém gì một cuộc chiến tranh.
Làm sao mà nhân dân ta có thể vượt lên, có thể chiến thắng được mọi thử thách lịch sử cam go ấy và thực hiện được một cuộc đổi mới ngoạn mục?
Vì nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn.
Vì cách mạng có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ấy từ nhân dân mà ra, có một mục tiêu sắt son: ngoài lợi ích của nhân dân, không có lợi ích nào khác.
Vì cách mạng biết khơi dậy sức mạnh của lịch sử, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy sức mạnh của văn hóa Việt Nam.
Con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam là một sức mạnh, một thứ gì đó rất kỳ diệu. Nếu không ai biết đến, không ai khơi dậy nó; thì dù chỉ còn lại một người Việt Nam, người ấy vẫn mang tình yêu cuộc sống mãnh liệt, quyết sống, quyết gieo mầm sự sống và sống một cách kiên cường bất khuất, sống đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo.
Câu chuyện Mai An Tiêm là một ví dụ. Thạch Sanh là một ví dụ khác. Chị Út Tịch, Mẹ Thứ, Mẹ Suốt là những ví dụ gần đây.
Làm nên con người như vậy, tinh thần như vậy là do sự trui rèn qua thực tiễn sản xuất và chiến đấu trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, do sự chọn lọc, bồi đắp của cha ông, do công lao to lớn của những sáng tạo văn hóa, VHNT.
Văn học nghệ thuật vốn có một sức mạnh to lớn, đóng góp to lớn trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, trong mọi lĩnh vực, trong mọi bước đường phát triển của đất nước. Một bài thơ thần Nam quốc sơn hà vẻn vẹn 28 chữ không chỉ giúp quân dân ta đánh thắng quân Tống hai lần vào năm 981 và năm 1077 mà còn khích lệ tinh thần quyết chiến quyết thắng, bảo vệ độc lập dân tộc cho đến ngày nay. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, những câu thơ Đồ Chiểu như những dòng máu đỏ tươi dào dạt chảy đến dòng VHNT yêu nước và cách mạng, nuôi sống tinh thần Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; tinh thần Không có gì quý hơn độc lập, tự do trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
*
Chúng tôi là những người được học kỹ càng về lịch sử dân tộc, suy nghĩ sâu xa về lẽ hưng vong của các triều đại. Chúng tôi hiểu câu nói của Thân Nhân Trung đã được khắc vào bia đá ở Văn Miếu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Vì thế các bậc thánh đế, minh vương, không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp đầu tiên…”
Chúng tôi là những người lính. Chúng tôi hiểu hơn ai hết sức mạnh của một tác phẩm nghệ thuật trong đời sống riêng của mình, trong việc tạo ra động lực chiến đấu. Từ trên ghế nhà trường, chúng tôi đã được học và noi theo tinh thần của Lý Tử Trọng, của Hoàng Văn Thụ để làm người yêu nước, xả thân vì nước “ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”; đã vang vọng những câu văn đẹp đẽ của Ê-ren-bua “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Volga, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yêu mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách? Người ta giờ đây đã hiểu lòng yêu của mình lớn đến dường nào, yêu người thân, yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô Viết. Điều đó ta đã hiểu, khi kẻ thù giơ tay khả ố động đến Tổ quốc chúng ta. Ai là kẻ chẳng cảm thấy, mùa thu qua, điều giản dị này: “Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa”? Và người Việt Nam, ai cũng nghĩ rằng: Bao giờ đất nước còn cắt chia, bao giờ chưa đến ngày thống nhất, ta còn phải đi. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi!
Suốt 20 năm, Sài Gòn và những miền quê nam đau thương nức nở:
Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó
Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về
(Lê Anh Xuân)
Chúng tôi ra trận với Truyện Kiều dưới đáy ba lô.
Chúng tôi ra trận với tiếng hát:
“Thường vẫn vậy đấy, bắt đầu hầu như chẳng có gì cả. Chỉ là một giọng hát. Đội trưởng chúng tôi vừa tắt đài. Trên đài, một người con gái nào đó vừa hát một bản dân ca của đất nước trong đêm khuya. Bây giờ tất cả im lặng rồi, giọt sao ngoài khung cửa đọng lại, đứng im, không nháy nữa, đêm đã đi vào chiều sâu, mà vẫn còn nghe âm vang mãi giọng hát của người con gái lúc nãy... Có lẽ không phải là một người con gái đã hát trên đài. Đó chính là quê hương ta đang lên tiếng hát. Tiếng ngân nga dội lên từ lòng đất, ở đó trong một góc vườn có đôi cây sầu đông và một giàn bầu đong đưa quả nặng, một ngày đã xa mẹ ta đã chôn nhúm nhau của ta thuở ta mới lọt lòng”... (Đường chúng ta đi, Nguyễn Trung Thành).
Chúng tôi ra trận với tâm thế Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi:
“Ôi tuổi thanh xuân
Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim
Ta sung sướng được làm người con Đất Nước
Ta băng tới trước quân thù như triều như thác
Ta làm bão, làm dông
Ta lay trời chuyển đất
Ta trút hờn căm để làm nên
những vinh quang bất diệt
Giáng xuống quân thù như sấm sét không nguôi
Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành
bão lửa ngút trời
Đất Nước
Ta hát mãi bài ca Đất Nước
Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc
Cho mắt ta nhìn tận cùng trời
Và cho chân ta đi tới cuối đất
Ôi! Tổ quốc mà ta yêu quý nhất
Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”
(Nam Hà)
Và chúng tôi đã cùng dân tộc mình đến Ngày Đại thắng 30-4-1975. Trên con đường ấy, những người con ưu tú nhất của dân tộc đã ngã xuống. Trong đó có những người chiến sĩ – nghệ sĩ lớn như Nam Cao (1917-1951), Nguyễn Thi (1928 -1968), Lê Anh Xuân (1940 - 1968), Thâm Tâm (1917-1950), Nguyễn Mỹ (1935-1971), Trần Mai Ninh (1917-1947); Trần Đăng (1921-1949), Chu Cẩm Phong (1941-1971), Dương Thị Xuân Quý (1941-1969)…
*
Chỗ Hiến nằm - giờ trời trắng heo may
Chỗ Thi ngủ - bình minh rơi tím đất
Mặt trận xưa, đồng trưa đưa cỏ mật
Ơi chiến hào tha thiết tuổi hai mươi.
(Hoàng Nhuận Cầm)
Tôi tin rằng, sự thanh bình của quê hương hôm nay đã là lời ru dịu dàng trên nghìn nghìn nấm mộ.
Các anh chị ngủ yên trong lòng đất mẹ và hiển linh thành khí thiêng đất nước.
Nhưng tôi tin rằng, các anh chị, cũng như chúng tôi, sẽ không đành lòng như lâu nay, nhiều kẻ chỉ biết ngưỡng vọng văn Tây, quay lưng lại với những trang viết bằng máu của văn học dân tộc. Sẽ không đành lòng với những kẻ đang đi dưới những vòm cây xanh mát của hòa bình, quay lại chê mắng cha ông đã gây ra cuộc chiến không đáng có mà chúng ta vẫn nuông chiều những đứa con bất hiếu, bất nghĩa ấy. Sẽ không đành lòng với thái độ được thỏ quên cung…
Nhưng tất cả những điều ấy cũng không quan trọng. Không một bóng tối ám muội nào có thể che nổi ánh sáng mặt trời.
Cái quan trọng nhất là cần nhận ra những động lực, nhất là động lực cốt yếu – con người Việt, giá trị tinh thần Việt để viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc đã mở ra từ Cách mạng Tháng Tám, từ Điện Biên Phủ, từ Đại thắng Mùa Xuân 1975: phồn vinh thật sự cho đất nước, hạnh phúc thật sự cho nhân dân. Và điều cốt lõi nhất làm nên hạnh phúc, chưa phải là vật chất dư thừa giàu có bằng người, hơn người; chưa phải là công nghệ tiên tiến bằng người, hơn người; càng không phải là sự hào nhoáng; mà là quyền làm chủ thật sự của người dân trên mọi lĩnh vực. Cái ấy mới thật sự hơn người.
Nó cần đến nỗ lực phấn đấu cao và chân thành của cả dân tộc. Cần tới sự chiến đấu của mỗi người, nhất là của lớp nghệ sĩ – chiến sĩ mới. Vì đó không phải là thứ ai ban cho.
*
Nhân đây, tôi cũng xin góp bàn về việc tổ chức hội của những người làm văn nghệ.
Trung Quốc có hòa bình từ năm 1949, trước ta rất lâu. Vậy mà Liên đoàn VHNT Trung Quốc vẫn tồn tại, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư ĐCS Trung Quốc, được hưởng ngân sách và các chế độ rất tốt, hoạt động có hiệu quả. Các thành viên của Liên đoàn gồm Hiệp hội Nhà văn (Hiệp hội tác gia), Hiệp hội Mỹ thuật (Hiệp hội Nghệ sĩ), Hiệp hội Điện ảnh, Hiệp hội Nhạc sĩ (Hiệp hội Âm nhạc), Hiệp hội Nghệ sĩ truyền hình, Hiệp hội Sân khấu Trung Quốc (Hiệp hội Hý kịch gia), Hiệp hội Thư pháp Trung Quốc. Liên đoàn có các cơ quan ngôn luận chung như Nghệ thuật Trung Quốc, Truyền hình đương đại, Điện ảnh đại chúng, Nhiếp ảnh phổ biến… Riêng Hiệp hội Nhà văn có hơn 9000 hội viên, có NXB Nhà văn Trung Quốc, có báo Văn nghệ (3 số/tuần), có tạp chí Văn học nhân dân (một tháng một số) và Nhà văn Trung Quốc (hai tháng một số).
Việc sắp xếp tổ chức theo định hướng mới và hoạt động như thế nào còn chờ. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng, nơi nào tổ chức, sử dụng tốt đội ngũ VNS, cũng như với các trí thức khác, nơi ấy có đời sống tinh thần lành mạnh, khoa học kỹ thuật phát triển, thúc đẩy kinh tế và các phong trào cách mạng. Một bài hát Người đi xây hồ Kẻ Gỗ không chỉ có sức mạnh của cả một công trường ngày ấy mà còn vang vọng năng lượng đến mãi mai sau!
*
Về hội viên, ngày xưa tự nguyện đứng vào tổ chức là tự nguyện làm người chiến sĩ phụng sự Tổ quốc bằng văn nghệ và bằng chính máu của mình. Sự sang trọng của họ chính là ở chỗ đó.
Nhiều năm nay, nhiều người vào hội văn nghệ rất xứng đáng bằng nhân cách và tác phẩm của họ. Nhưng nhiều người vào là để mua danh. Có người mua thì có người bán và ngược lại, có người bán thì có người mua. Nhiều người vào hội không xứng đáng, làm mất uy tín của hội và gánh nặng chco xã hội; gây ra tiêu cực trong các hội đồng, trong ban chấp hành; tạo ra tệ nạn chạy vào hội.
Có hai cách làm cho hội trong sạch. Một là trong sáng, công tâm trong chuyện xét vào hội, xét giải thưởng. Hai là mở rộng cửa để ai yêu văn nghệ cũng có thể vào được. Đây không phải là ý kiên của riêng tôi, mà một điều khoản trong Điều lệ của Hội Văn hóa Cứu Quốc năm 1943 đã nêu trong Khoản III – “Điều kiện vào hội là người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, yêu văn hóa, dù đã hay chưa có công trình văn hóa, công nhận mục đích của hội, có 2 hội viên giới thiệu và bảo lĩnh, phải qua 3 tháng dự bị” và Khoản IV “ Nhiệm vụ hội viên: trung thành, hoạt động trong một tổ chức của hội, giữ bí mật, đóng nguyệt liễm”. Nếu như vậy, sẽ chẳng có ai chạy vào hội và hội phí đóng đầy đủ, sẽ đỡ gánh nặng cho Nhà nước. Hoạt động của hội trở nên minh bạch, uy tín không bị mất đi.
Còn nếu không có tổ chức hội như trong nhiều thời kỳ lịch sử, tôi tin rằng, các nhà nghệ sĩ với tấm lòng yêu nước nồng nàn, với tài năng sẵn có, chắc chắn vẫn có những tác phẩm tốt.
Tuy nhiên, tất cả các nghị quyết của Đảng từ trước tới nay, đều coi trọng và yêu cầu giới văn nghệ phải đồng hành cùng dân tộc; phục vụ sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Văn nghệ là bộ phận tinh hoa, là phương tiện hữu hiệu nhất trong việc xây dựng con người, xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, tạo ra sức mạnh vật chất to lớn góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc như mục tiêu của cách mạng đề ra.
Hy vọng với điều kiện thuận lợi như hiện nay, nhất định Nhà nước và nhân dân chăm lo, tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động VHNT.
Mỗi địa phương, nhất là Hà Tĩnh càng có cơ chế, chính sách tốt hơn đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có đội ngũ VNS kiên trung, tài năng, rất đáng tự hào./.
N.S.Đ