Nhà thơ DUY THẢO lấy tên thật làm bút danh, tên khai sinh của ông là Phan Duy Thảo, vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004. Ông sinh ngày 03 tháng 6 năm 1938 tại làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tạp chí Hồng Lĩnh số 217 tháng 9/2024 trân trọng giới thiệu chân dung, tác phẩm “Vườn xưa”, “Góc chiều”, “Chạm chén” của nhà thơ và bài viết “Duy Thảo – cốt cách cỏ hoa” của Nguyễn Thanh Truyền
Nhà thơ Duy Thảo
Nhà thơ DUY THẢO lấy tên thật làm bút danh, tên khai sinh của ông là Phan Duy Thảo, vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004. Ông sinh ngày 03 tháng 6 năm 1938 tại làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Duy Thảo thoát ly gia đình từ năm 1958, làm công chức ngành thương nghiệp, tỉnh Nghệ An. Năm 1962, ông nhập ngũ, làm lính tiêu đồ, sau đó chuyển sang pháo thủ 57 ly, rồi khẩu đội trưởng, trung đội trưởng, đại đội phó... Trung đoàn pháo cao xạ 280. Cũng từ đó ông bén duyên với nghề thơ – nghiệp báo, làm phóng viên chiến trường của Báo Phòng không - Không quân. Sau 10 năm quân ngũ, năm 1972 Duy Thảo chuyển ngành, về quê làm cán bộ Tuyên huấn Tỉnh đoàn. Hành trình hoạt động báo chí và sáng tác thơ ca bền bỉ của ông thực sự bắt đầu khi ông được điều động làm Thư ký tòa soạn báo Nghệ Tĩnh. Sau chia tỉnh năm 1991, ông làm báo Hà Tĩnh, rồi làm Phó Tổng biên tập kiêm Thư ký tòa soạn tập san Hà Tĩnh - Người làm báo. Nổi tiếng bởi sự tinh tế và nghiêm cẩn trong làm báo, khi đã nghỉ hưu ông vẫn tiếp tục được mời giữ vai trò Trưởng Văn phòng đại diện báo Khuyến học & Dân trí khu vực Bắc miền Trung thêm hàng chục năm.
Duy Thảo vừa là nhà báo làm thơ vừa là nhà thơ làm báo, lại gắn bó gần gũi gốc gác nhà quê, nên thơ ông vừa có chất thông tấn nhạy bén tươi ròng vừa có những suy tư trăn trở bề sâu tha thiết. Nổi tiếng khá sớm, luôn coi thơ là nơi ký thác tiếng lòng, Duy Thảo viết giản dị chân thành, thường xuyên chất vấn về sự viết nhưng không hề chịu áp lực về lối viết. Ông viết nhiều đề tài, nhưng những bài thơ gan ruột nhất của ông là về quê, về mẹ, về gia đình và về chính nghề thơ – nghiệp báo (Thấy ngàn việc, mong nhìn ra một việc/ Nghe trăm lời, muốn chọn được một câu/ Viết mươi dòng, cố tìm ra một chữ/ Chút nghề riêng làm bao kẻ bạc đầu. – Nghề riêng).
Gần 60 năm từ thời điểm bài thơ “Mừng chiến thắng trời quê” ra đời (1965), Duy Thảo có gia tài thơ dày dặn với 12 tập thơ: Lời tin yêu (in chung, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, 1976), Lối xanh (Nhà xuất bản Văn hoá, 1991), Sau mùa lá rụng (Nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin, 1997), Bến mặn (Nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin, 2000), Mưa ngâu (Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, 2002), Lộc vừng (Nhà xuất bản Văn hoá- Thông tin, 2004), Góc chiều (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2004), Nỗi xưa (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2008), Đi dọc lối xanh (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2008), Mưa giao mùa (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2014), 80 bài thơ Duy Thảo (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018), Lối về (Nhà xuất bản Văn học, 2020).
DUY THẢO
Vườn xưa
Mảnh vườn xanh biếc tuổi thơ,
Tiếng ve nhắc tổ chim chưa ra ràng.
Quả ương giấu kín ngọn bàng,
Thương chú dế chọi gãy càng, bỏ cơm.
Mẹ về ấm lựng ổ rơm,
Chị đi đứng khóc mỏi đường dưới mưa…
Mảnh vườn của những ngày xưa,
Tôi đi từ dạo mình chưa biết mình.
Bao làng quê của chiến tranh,
Con đê thì lớn, mái đình thì cao.
Trưa hè vọng một tiếng rao,
Nhớ canh hến Thượng nôn nao muốn về.
Nửa đời quen sống xa quê,
Ngày đau nghỉ việc tìm về vườn xưa.
Đọt bầu ngọt bát canh cua,
Trái xoan rụng, nhớ tuổi thơ bày hàng.
Chè xanh đậm bột khoai lang,
Bạn bè thấm nghĩa mênh mang vơi đầy.
Nửa đời ngước ngắm hàng cây,
Tôi đi từ dạo vườn này của ai?
Chợt nghe ngọt lịm tiếng cười,
Tiếng chim gọi bạn hay đời gọi anh?
Bí bầu trố mắt lá xanh,
Vườn xưa mình gặp lại mình, đó em.
Làng Đông Thái, 4/1979
Góc chiều
Cứ nghĩ là em không về nữa,
Sương đông giăng trắng trải sân nhà,
Quả gấc muộn mùa, vàng quắt cuống
Rụng đỏ góc chiều, cơn gió qua...
Ngày ấy, em đi theo giận dỗi,
Heo may tráng lạnh lá dong riềng.
Hạt đỗ nép vào khe đất hở,
Ơ hờ nằm đợi tiết ra giêng.
Giêng hai ngọn đỗ vươn tay lá,
Nôn nao đàn kiến đói rơm vàng.
Anh đi thui thủi dọc đêm lặng,
Ủ cháy men tình, uống hạ sang...
Nào hay, Tết này em về lại,
Khi anh ra với phố không vườn.
Rằm xuân tiếng trống làng xa lắc,
Nửa nhớ quê nghèo, nửa phố thương.
Cứ nghĩ là em không về nữa,
Thôi đành, trăm chuyện gác cho nhau,
Chợ hoa nói hộ lòng ta đó.
Mấy khóm lưu ly đến tím màu.
Xuân, 1997
Chạm chén
Mời em nâng chén lên thôi
Dẫu không uống cũng chạm môi gọi là
Để người biền biệt đi xa
Ấm lòng về lại quê nhà gặp nhau
Mời em chạm một chén đầu
Chạm vào một chút thẳm sâu cõi già
Để mừng cho cả hai ta
Giờ về, con cháu – ông bà đông vui
Mời em nhấp một chút thôi
Soi trong ánh mắt làn môi có còn
Những đêm trách móc giận hờn
Những ngày đắm đuối tâm hồn mê say…
Mời em uống cạn chén này
Chút thơm, chút đắng, chút cay, chút nồng
Mai rồi về cõi hư không
Tìm đâu được chén rượu hồng dương gian.
2005
Duy Thảo - cốt cách cỏ hoa
NGUYỄN THANH TRUYỀN
Tôi đến với thơ Duy Thảo từ lâu lắm. Nhiều lần đọc, tôi cứ bất giác nghĩ về màu xanh trong thơ ông và đã thử khảo sát số lần tác giả sử dụng gam màu này. Nhưng khi động bút tính đếm, tôi nhận ra ngay việc ấy chẳng mang lại ý nghĩa gì nhiều. Ngoài những con số thống kê, thì kết quả thu được cuối cùng không ngoài phán đoán cảm tính từ trước: màu xanh là gam màu được Duy Thảo sử dụng nhiều nhất với mật độ dày đặc những từ ngữ chỉ màu xanh và liên quan đến màu xanh, bất kể điều đó có phải là dụng ý của tác giả hay là sự chọn lựa tự nhiên của quá trình sáng tạo. Cho nên, thay vì tìm đếm, tôi chỉ đọc, để thầm hưởng những vẻ đẹp của “cốt cách cỏ hoa” trong những sắc xanh tỏa ra từ hồn thơ Duy Thảo.
“Cốt cách cỏ hoa” là tên một bài thơ ghi lại những cảm tác, suy tư của Duy Thảo trước cỏ hoa “vườn Nguyễn”, “vườn Kiều”. “Cốt cách cỏ hoa” gợi về nghĩa chiết tự của tên ông. Ông họ Phan, sinh ra và lớn lên ở làng khoa bảng Đông Thái vang danh cả nước, lấy tên thật làm nghệ danh viết báo, làm thơ: Duy Thảo, nghĩa là “chỉ là/có cỏ”. Bút danh của ông toát lên một bản lĩnh sống, một bản lĩnh văn hóa, toát lên cốt cách vừa nhẫn nại, khiêm nhường vừa mạnh mẽ, quyết liệt; vừa bình dị, lành hiền vừa ngang tàng, kiêu hãnh. Cốt cách ấy, bản lĩnh ấy được tãi ra, hiện hình sinh động trong thế giới nghệ thuật thơ ông. “Cốt cách cỏ hoa” còn gợi nhiều liên tưởng xa hơn, nghĩa là không chỉ là cỏ, không chỉ có cỏ - và có lẽ liên tưởng này đúng với sức biểu đạt của thơ ông hơn cả.
Trước hết, đó là màu xanh thiên nhiên, màu của sự sống - màu xanh của sông biển, đất trời, hoa lá, cỏ cây,... Sắc màu ấy hiện lên qua cách cảm nhận cuộc sống bằng sự tinh tế, say mê trong quan sát, ngắm nhìn.
Nhà xưa cách sông La chỉ vài mảnh vườn và một dải đê, nên dòng sông sinh dưỡng máu thịt thiêng liêng luôn hiện lên trong thơ ông với nhiều nét riêng. Xanh mát lành như đặc sản hến Thượng: “Xanh đến xanh leo lẻo/ Mát tận cùng ruột gan” (Ngược nguồn con nước). Khoáng đạt hòa vui cùng sự chuyển mình của đất quê trù phú: “Màu xanh xanh đến nõn nà/ Dòng vui từ bến Tam Soa đổ về” (Dọc bãi sông La). Yên bình, thơ mộng phủ lên bao vui buồn đời đời kiếp kiếp dân quê: “Con đê vẫn cỏ xanh rờn/ Trải bao ký ức vui buồn, quê ơi” (Nét xuân quê). Khắc khoải nỗi niềm sâu lắng trong giai điệu đặc trưng: “Một dòng trôi êm ả/ Hai bờ nghiêng hiền hòa/ Trong xanh trầm tĩnh ấy/ Ai đặt tên sông La?” (Bến Tam Soa, sông La). Và xoa dịu những buốt xót đau thương, mất mát: “Nhịp cầu quê nối đôi bờ nội ngoại/ Nước xanh trong gội bớt nỗi đau đời”(Mưa ngâu). Từ sông La, tâm hồn Duy Thảo dễ cảm, dễ hòa cùng vẻ đẹp những dòng sông khác của quê hương xứ sở: “Đi trong chiều sông Tiêm/ Xanh một vùng bỡ ngỡ/ Đập tràn giăng dải lụa/ Cuốn theo bao sợi mềm/ Đôi bờ thành khung cửi/ Dệt anh vào mắt em” (Chiều sông Tiêm).
Cũng bởi khởi phát từ dòng xanh quê hương, hồn thơ Duy Thảo dễ rung động và cảm nhận những vẻ đẹp của cuộc sống xanh tươi rộng lớn. Bằng trái tim mẫn cảm mà sâu sắc của chàng trai làng Đông Thái, hành quân qua miền đất Tổ “Vườn xanh nhãn chuối Vĩnh Tường”, Duy Thảo sớm nhận ra bến đỗ của đời mình, đã neo đậu, kết mối tình duyên đằm thắm bền bỉ với người con gái Mê Linh: “Anh về Vĩnh Phú quê em/ Bởi sâu nghĩa nước, nặng thêm tình nhà” (Quê em). Người trai ấy bay bổng cùng màu mây vờn trên nền trời xanh thăm thẳm khi về với biển: “Con đường về biển Cẩm Xuyên/ Mơn man ngọn gió mát mềm hàng dương/ Trời xanh cho đỉnh mây vờn” (Về biển Thiên Cầm). Rồi thư thái cùng cây lá yên bình: “Biển như dồn gió về đây/ Trời như dịu nắng cho cây xanh rờn” (Trước đền Bà Hải). Lại nao nức với màu lộc biếc tháng hai mời gọi hội xuân: “Tháng Hai lộc biếc xanh rờn/ Em về lễ hội chùa Hương anh chờ” (Về hội chùa Hương). Thảnh thơi thả hồn trong cảnh nước non Ngàn Hống: “Đỉnh cao choàng mây trắng/ Sườn dọc trải thông xanh/ Thung dài giăng suối biếc/ Người đi trong hữu tình” (Nước non Thiên Tượng)… Với màu xanh phủ đầy, cảnh trong thơ Duy Thảo thường hiện lên thanh dịu, tươi mới, hữu tình. Được nhìn bằng đôi mắt “xanh non, biếc rờn” nên màu xanh hiện lên với muôn vàn sắc thái như chính cuộc sống phong phú diệu kì. Có “xanh non”, “xanh rờn”, “xanh leo lẻo”, “xanh biếc”, “xanh trong”, “xanh lam”, “xanh ngắt”, “xanh thắm”, “xanh mát”, “nõn lụa”, “trắng xanh”,… Không chỉ đất trời, cỏ cây, hoa lá,… mà còn có màu xanh của vảy cá, màu xanh của lửa hàn, màu xanh của nắng, màu biếc của gió, màu xanh của đôi mắt giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ hoang sơ đang đổi mới: “Đông vui cảng cá, ấm câu cười/ Con mú, con thu,… nằm chen lớp/ Trắng xanh làn vảy, đỏ mang tươi” (Chuyện biển), “Đêm xanh lóe chớp lửa hàn” (Tiếng hát bàn tay), “Nắng xanh hẳn mát lời Than Thở” (Thông xanh Đà Lạt), “Gió choàng áo biếc, cây reo la đà” (Tam Đảo sau mưa), “Xin lưu giữ vết bùn tươi đất đỏ/ Để nhớ ai xanh đôi mắt cao nguyên” (Xanh Chư Quynh). Đó là màu của sự sống, là những vẻ đẹp của sự sống được cảm nhận và thể hiện bởi người cầm bút luôn gắn bó máu thịt, luôn thiết tha yêu từng dáng nét, sắc màu, từng khoảnh khắc của sự sống.
Không chỉ gắn bó, cảm nhận, say ngắm, Duy Thảo còn luôn nắm bắt kịp thời từng biến chuyển đa chiều của sự sống này. Nắm bắt không chỉ theo kiểu cập nhật, bắt nhịp, mà nắm bắt ở những chiều bản chất, ở phía những cội nguồn tinh tế, sâu xa. Nắm bắt, rồi ngẫm ngợi, trở trăn. Rồi có cả vận vào, dằn vặt. Và rồi, hy vọng những điều lành. Thế nên, từ màu xanh sự sống được quan sát và miêu tả trong thơ, ta gặp màu xanh sức sống phản ánh thế giới nội cảm của Duy Thảo. Ông sống và viết luôn nghiêm cẩn với quan niệm: “Thấy ngàn việc, mong nhìn ra một việc/ Nghe trăm lời, muốn chọn được một câu/ Viết mươi dòng, cố tìm ra một chữ/ Chút nghề riêng làm bao kẻ bạc đầu” (Nghề riêng), bởi “Nghề thơ, nghiệp báo một đời đa mang” (Với mình). Là người thơ có cốt cách, nên thơ Duy Thảo, chìm sâu/thấm quyện trong kể tả bao giờ cũng là đời sống nội tâm, mang chở tâm sự. Ông mượn màu xanh gợi tả dáng nét xưa, để gợi nỗi nhớ về: “Mảnh vườn xanh biếc tuổi thơ” (Vườn xưa), “Cỏ non gợi mái tóc thề/ Cây xanh nhớ nét chân quê dịu hiền” (Quãng đường xuân). Nhuốm vào những hoài niệm, màu xanh trở thành màu của ký ức, của một thời tuổi trẻ giàu mơ mộng ám ảnh suốt đời người: “Đành như người đã qua rồi/ Trong tôi còn lại khoảng trời xanh xưa” (Khoảng trời xưa). Vận vào suy tư, màu xanh gợi nhắc niềm tri ân: “Mỗi gié lúa trên đồng quê xanh ngắt/ Đều thấm ơn bao nhiêu giọt mồ hôi” (Mừng chiến thắng trời quê). Thể hiện niềm vui sống, khát vọng sống: “Tôi về giữa Sài Gòn giải phóng/ Sáng mai nay xanh đất xanh trời/ Hồn xanh mát giữa dòng vui vô tận/ Sài Gòn ơi! Khát vọng của tôi ơi!” (Trọn niềm tin). Thể hiện sức đổi thay, trỗi dậy của những vùng quê: “Sương tan như thực, như mơ/ Đồi xanh tít tắp những lô luống chè” (Làng đồi vào xuân), “Đất xưa cằn gốc, khô cành/ Giờ vui ruộng tốt, vườn xanh bốn mùa” (Về Can Lộc). Toát lên niềm hy vọng: “Lụt bão qua rồi, vợi nỗi đau/ Vườn xanh chồi biếc, ruộng xanh màu/ Ríu ran tiếng trẻ vui trường mới” (Qua bão), “Lá rụng vàng sân tóc bạc úa/ Vận đen đau yếu sám mồi da/ May còn hồng phúc mắt xanh lại/ Để ngắm cành đào xuân nở hoa” (Xuân cảm). Màu xanh là màu của quyết chí hồi sinh: “Làng sau bão đắm chìm trong toan liệu/ Bắt hạt mầm lên kịp với chồi xanh” (Gặp sau cơn bão). Là người “một đời đa mang”, nhiều trở trăn về cuộc sống, tâm hồn Duy Thảo có thiên hướng tựa vào, vin vào, tìm về, hướng về, hướng đến cái sắc màu bình yên, thanh dịu, mát lành để tìm phút nghỉ, để lắng lại, lắng lòng, để như được tiếp thêm sức sống, và lại có thể ngẫm ngợi, đồng cảm, lại “toan liệu” cho người cho đời, “toan liệu” để góp phần tạo dựng, khởi dựng… Nói đó là màu của điều lành, điều vui, của sức sống là vì vậy!
Màu xanh trong thơ Duy Thảo còn là màu của giá trị sống. Viết nhiều về màu xanh vừa là lựa chọn tự nhiên thuộc về bản năng nghệ sĩ, thuộc về cá tính sáng tạo vừa như là sự lựa chọn có dụng ý dụng tâm của tư duy nghệ thuật Duy Thảo. Thế giới đa sắc, cuộc sống không chỉ có màu xanh. Khi mượn thơ để nói lên tiếng lòng trong những va chạm với muôn mặt đời sống, ông cũng có sử dụng nhiều màu sắc khác để thể hiện sự tương phản hoặc hài hòa: “Như ruột dưa hồng/ Giấu vào xanh vỏ” (Giấu), “Bom đạn bao lần cây vẫn thắm/ Như tình đồng đội giữ trời xanh” (Hoa hồng), “Mây buông yếm trắng lưng đèo/ Gió choàng áo biếc, cây reo la đà” (Tam Đảo sau mưa),... Dù vậy, màu xanh vẫn là gam màu đáng chú ý nhất trong thế giới nghệ thuật thơ, nơi “cốt cách cỏ hoa” phát lộ. Căn cốt thơ Duy Thảo là xanh, dòng thơ ông khởi từ nguồn xanh, không gian thơ Duy Thảo mang hình hài xanh của những giá trị văn hóa của nguồn cội đất quê sông quê giàu trầm tích (Chẳng biết là ngẫu nhiên hay là sự gặp gỡ của những giá trị, khi nhiều nền văn minh trên thế giới cũng xem màu xanh là màu của trí tuệ thông thái, màu của những giá trị bền vững xuyên thời gian!). Với một hồn thơ xanh, Duy Thảo thể hiện suy cảm về những vẻ đẹp sâu xa, đa chiều của cuộc sống. Đó là màu của tình yêu lứa đôi hòa vào, góp thành vẻ đẹp sáng tươi của cuộc đời: “Về phép thăm em mươi bữa/ Ra đi lòng xốn xao lòng/ Tình đời khơi sâu thêm mạch/ Kênh dài mải miết xanh trong” (Về phép). Đó cũng là màu của tuổi trẻ, của ký ức hoa niên, như “Tôi đang vào tuổi bảy mươi/ Thầy hai mươi lẻ của thời xuân xanh” (Thưa thầy) hay “Xin ai giữ lại khoảng trời xanh xưa” (Khoảng trời xưa). Là màu của kỷ niệm và cũng là để phong kín kỷ niệm trong cái xốn xang trở về lối cũ, trong lời giã biệt/tự thú ngậm ngùi có vẻ rất phong tình/tình tứ lại đồng thời xuất hiện cảm giác bối rối chân thành rất riêng, rất Duy Thảo: “Tôi trở lại sau tháng năm cách biệt/ Lối mòn xưa, cỏ phủ kín xanh rờn./ Câu giã biệt như là thêm có lỗi:/ - Về già rồi sao cứ nhớ nhau hơn!” (Lối xanh).
Chân thành, gan ruột, bộc trực, không ưa màu mè là thiên tính của Duy Thảo. Và mười năm làm lính chiến lại càng khiến cho nét tính cách ấy thêm cứng cỏi, đằm sâu. Bởi vậy mà màu áo lính xuất hiện rất nhiều trong thơ ông, “Tha thiết quá ơi màu xanh giản dị” (Về thăm làng pháo). Duy Thảo dành hẳn một bài thơ ký thác những hoài niệm, suy tư về/từ màu áo lính. Màu áo lưu dấu tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những chiến binh “Một thời thắm thiết màu xanh/ Cái màu áo lính trở thành nhớ thương”; màu của sự gắn bó, sẻ chia, của điểm tựa yên bình “Cái màu tin để mà yêu/ Xa rồi để nhớ, gặp nhiều để mong/ Khi đời nặng gánh bão giông/ Gặp màu áo lính nghe lòng nhẹ rơi…”; màu của ký ức luôn luôn tươi mới, là giá trị vững bền còn lại khi những chiến công hay danh lợi qua rồi “Chỉ còn màu áo lính thôi!/ Xanh tươi che mát cuộc đời thế gian” (Màu áo lính). Chính chất lính ấy giúp người thơ Duy Thảo bền chí, vững bước, vững bút, vững lòng khi “đi qua chiến cuộc về nơi ngỡ ngàng” thời hậu chiến, rồi thời đổi mới mở cửa “Bao điều bạc phếch lòng tin/ Chỉ còn quê kiểng giữ xanh lời thề” (Cõi về).
Duy Thảo tin vào màu xanh “quê kiểng” như tin vào chính mình, tin vào những giá trị tốt đẹp cốt lõi, bền vững thường hằng giữa nhân tình điên đảo, giữa thế thái xoay vần luôn khiến ông day dứt trở trăn “Cái thời tôi viết nhắc tôi/ Đêm đêm trở gió trái trời đêm đêm” (Cái thời tôi viết). Với Duy Thảo, “xanh” đã trở thành một tiêu chí, một thang bậc giá trị sống. Và, hẳn nhiên, xanh trở thành tiêu chuẩn định giá vẻ đẹp và sức sống của thơ: “Rồi anh lại tìm về bến mặn/ Thiên Cầm ơi! Ngàn hẹn, ngàn chờ/ Cho biển xanh da, cho em xanh tóc/ Sóng vỗ bạc đầu cho xanh câu thơ” (Bến mặn), “Bao mùa xuân qua nhanh/ Tóc ta giờ bạc trắng/ Vẫn mong được dâng đời/ Câu thơ tình xanh thắm” (Xuân cảm). Giá trị ấy, tín niệm ấy thậm chí còn hóa thân thành biểu tượng “lối xanh” với bài thơ “Lối xanh”, tập thơ “Lối xanh” và cả tuyển thơ “Đi dọc lối xanh” nữa. Biểu tượng “lối xanh” cứ trở đi trở lại, như một lối về hoài niệm vườn Thúy, như một dòng trong lành yên bình giữa muôn dòng ngầu đục, như một cõi lành giữa cõi sống xô bồ hỗn tạp tính toan: “Lối mòn xưa, cỏ phủ kín xanh rờn!” (Lối xanh), “Tôi tìm đến bạn bè xưa thân ái/ Qua Lối xanh dù gai góc rậm rì/ Trên lối ấy dù người còn, kẻ mất/ Vẫn nguyên lành kỷ niệm buổi phân ly” (Khúc hát ngày về).
Thiên tính xanh Duy Thảo nhiều khi xuất thần chạm vào thiền tính. Tựa vào thiên nhiên biếc xanh trường cửu, nhìn cây lộc vừng quen thuộc vẫn mọc nơi bờ ruộng bờ ao được “về chốn phù hoa” với thân phận cây cảnh, nhà thơ viết những dòng nhẹ tênh mà lắng sâu ngẫm ngợi: “Ờ thì ra cây cỏ/ Vốn xanh biếc muôn đời/ Lúc nghèo người bỏ mặc/ Lúc sang người đón chơi” (Lộc vừng). Và đây là những dòng tứ tuyệt vừa có cái lắng trong đắc đạo vừa có cái động cựa của đời, vừa thể hiện cảm thức xuyên thời gian vừa thể hiện ý thức về hạn độ nghiệt ngã của thời gian: “Thời gian mở trước mắt người/ Sau lưng, ngoái lại quãng thời gian qua/ Đường đời cột mốc xanh xa/ Lá vàng là dấu chân ta rụng đầy.” (Xanh xa). Chạm vào thiền tính, nhưng thơ Duy Thảo vẫn neo chặt vào những giá trị rất đời. Cốt cách thơ ông là vậy, luôn mang nặng nỗi đau đời, lo đời nên thơ luôn cất lên cái khao khát thanh lọc, thanh dịu, gieo mầm những giá trị sinh thái bền vững: “Chỉ ghét những loài sâu/ Chuyên đục cành, khoét ruột/ Từ cánh rừng xanh tốt/ Nay cháy khô nhựa đời…// Không sợ trời bắt đứng/ Chỉ sợ đất bắt nằm/ Ta là mầm là hạt / Giữa đất trời mùa xuân” (Lời của cây). Nhà thơ gieo mầm đạo lý, gieo những giá trị nhân văn bằng những hành vi văn hóa thanh cao mà nồng hậu: “Gặp thầy, người gọi bằng anh/ Còn tôi hai tiếng chân thành mà thôi” (Thưa thầy), “Dù chỉ một câu thơ/ Mong thành làn gió mát/ Dù chỉ một mẩu tin/ Mong góp mùa gieo hạt” (Nguyện),...
Không cầu kỳ kiểu cách mà luôn ấm nóng đằm sâu, mộc mạc giản dị mà lan tỏa hiền hòa, bản lĩnh người thơ Duy Thảo là thế! Thực hiện dòng suy cảm Duy Thảo – Cốt cách cỏ hoa này, người viết có chủ ý chọn trích một số câu thơ viết về màu xanh tiêu biểu nhất của ông thôi, nhưng thật khó, buông câu nào cũng không đành bởi cái tình và nỗi trở trăn trĩu nặng, chân thành trong mỗi ý tứ. Làm thơ, Duy Thảo không dụng công tìm chữ, ông chỉ cố ghi lại thật nhanh, chuyển tải thật kịp thời, giãi bày thật trong sáng những cảm nghĩ mà trái tim và khối óc mẫn cảm của ông nhận biết, phát hiện, ngẫm suy trong những va đập với đời. Trong suốt hành trình sáng tạo ngót 60 năm tính từ thời điểm bài “Mừng chiến thắng trời quê” (1965) vang danh trên sóng thơ Việt, với một “gia tài thơ” đầy đặn đáng tự hào, Duy Thảo trước sau vẫn là chính mình, “cốt cách cỏ hoa” của ông chỉ chọn hình thức mộc mạc, trong sáng, lắng sâu để hóa thân. Ông chưa từng chạy theo những ảo ảnh cách tân để viết những câu thơ khiến người đời sửng sốt hay trầm trồ vì lạ. Thơ ông tự tin, bình dị xanh. Giá trị, sức sống của thơ ông cất lên từ những điều bình dị ấy! Bởi thế, có thể hình dung Duy Thảo trong làng thơ núi Hồng sông La như cây đa đầu làng vững bền cội rễ, tỏa bóng mát yên lành bất kể gió mưa xoay chuyển muôn chiều.
2018 - 2024
N.T.T
____________________
* Thơ trích trong bài rút từ các tập: Đi dọc lối xanh (Nxb HNV. 2008), Nỗi xưa (Nxb HNV. 2008), Mưa giao mùa (Nxb HNV. 2014), 80 bài thơ Duy Thảo (Nxb HNV. 2018).