17-04-2019 - 09:37

Tản văn AO QUÊ của Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú

 AO QUÊ    . .

                              (Tản văn)

  Một mảnh ký ức làng, hồn làng còn lưu lại trong tâm tưởng như một nốt nhạc tĩnh lặng mà xao xuyến bởi những gợn sóng viền vào nỗi nhớ, đắp bồi  thêm nỗi nhớ đó là ao quê…

Ấn tượng nhất  của tôi với ao quê là chiếc cầu ao bằng tre. Một đầu bám thật chắc vào đất, một đầu mở ra với sóng nước, với lấp lánh trăng; với chấp chới nắng; với lúng búng tiếng cá đớp mồi; với lấm tấm những chùm hoa lộc vừng và lao xao bóng tre như muốn chải mái tóc làng quê vào chiếc gương trời sóng sánh. Cầu ao là nơi mẹ ta đi cấy về thong thả chao chân rửa đôi quang gánh, gánh mạ. Chị ta vớt những đám bèo, vớt lên cả những đám mây mắc cạn. Và hơn một lần chị đã có lúc tần ngần khi nhìn những vòng sóng giao thao mà bất chợt gió trời  tung tẩy.  Sóng của ao hay sóng trong lòng của cô gái đến tuổi dậy thì. Chiếc cầu ao cũng là chiếc cầu nhảy cho đám trẻ tập bơi những buổi trưa hè. Ao như vòng tay ôm tuổi thơ vào lòng thật tin cậy và mềm mại. Ao quê là nơi bố ta đi cày về, áo vắt vai. Người thong thả ngồi cạnh bờ ao rít khói thuốc lào, nhìn ra mặt ao và nhẩm tính: Lứa cả thả đầu năm đến tháng này không biết đã lớn chưa. Ơi những chú cá trắm, cá trê, cá tràu da nhẩy bóng cứ ăn những phù du trong nước, hít thở khí trời trong lành, có tấm dù ao bèo che chở, cứ thế  trùi trũi lớn lên săn chắc cứ không béo mỡ nhễ  nhại như cá nuôi thức ăn công nghiệp ở những khu ao  đầm. Hàng khoai nước cạnh mặt ao là nơi dạo chơi lý tưởng của mấy chú rô ron, cá cờ thích tung tăng bơi lội. Đám trẻ con chúng tôi biết rõ điều đó liền sắm cho mình những cái vợt, cái vó con xinh xắn hay những cái cần câu để bắt chúng về thả vào lọ thủy tinh làm đồ hàng. Những đêm vắng có mưa rào vọng lại từ phía mặt ao quê tiếng “ếch học bài”, tiếng chẫu chàng ọp ạp. Những chú ếch con bé xíu như đầu ngón tay như vừa mới ra đời, khi thì ngồi trên những chiếc lá khoai nước, khi thì nhảy lên bờ, nghe tiếng động liền phi ngay xuống nước.

      Trong ký ức của tôi, ao quê là nơi ươm và trỗi dậy những bè rau muống, “rau sạch”. Sau trận mưa là vươn ra mơn mởn xanh. Cái màu xanh thật thà có nét còn vụng về, loằng ngoằng hút tinh chất từ cuối rễ bén vào mặt ao để đơm đầu cành cho bữa cơm đạm bạc, dưa, cà, mắm, muối… Rau muống ao ăn giòn, ngọt, luộc chấm với tương nếp nhà làm ra từ chum tương đặt ở gốc sân đội cái món mê như người bạn cặm cụi của nhà nông.

  Ao quê còn gắn với một loại rau tên mang dáng dấp của người nông dân đó là rau cần. Loại rau cần cù này được trồng khi bố tôi tháo cạn nước ao để bắt cá, khi lòng ao chỉ còn lại lớp bùn non mượt. Rễ rau cần từng chùm, thân rau cần trắng muốt, lá rau cần mềm mại, tươi lành phủ kín mặt ao. Mùa rau cần đi qua cũng là lúc những đợt mưa xuấn  lất phất   rắc lên cảnh êm đềm của làng quê những đọt mưa, đọt lộc. Mặt nước ao giờ đây lại ắp đầy trong vắt. Hàng lộc vừng thích nước ngả vào lòng ao từng tràng pháo hoa nở bung, rải những thảm hoa vào nước. Lá khoai nước bên mép bờ ao giờ lại trổ ra những tàu lá xanh mỡ màng, phủ một lớp lông tơ mịn mượt

       Trong thi ca Việt Nam ao quê là niềm cảm hứng khoanh vùng lại miền ký ức trong mỗi tâm hồn con người. Bởi ở đó ta được ký thác bao buồn vui sóng sánh bao nỗi niềm để ngỏ viền lại trong ta những thương nhớ  dập dềnh. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ Mùa Thu viết về ao quê mang  vẻ đẹp cổ  điển mà gửi gắm bao tâm tư của một ông quan trả ấn về làng: “Ao quê lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền con bé tẻo teo”. Chiếc thuyền đó chở cả đạo đời và cả đạo học. Ao quê như một tờ giấy thấm ngấm bao vòng  sóng giao thoa chìm nổi khôn nguôi nhưng chắc chắn ở đó ta được định vị một chốn yên lành dù có sâu có vơi, có đầy có cạn. Ao quê câu cá ta câu cả bóng mình, hồn vía của mình,. Chiếc phao ngô hồi hộp chút mồi giun  rập rình cũng đủ làm náo nức trong ta giật lên những niềm vui tung tẩy. Có khi mắc cá, có khi mắc cả những đám mây lững lơ nhẹ bẫng. Ao quê không bao giờ là đáp số số không, mặc dù là hình tròn. Bởi ta câu được cả những ký ức một thời và mãi mãi.    

Bốn mùa đi qua ao quê khi đầy, khi cạn nhưng không bao giờ vơi tình làng, nghĩa nước. Ao là chứng nhân của một thời, một đời bao buồn vui khỏa lấp. Nhưng lại viền vào ta nỗi canh cánh thường trực, cái ám ảnh một thời của ông Tú Xương: “Bỗng nghe tiếng ếch bên tai  - giật mình cứ ngỡ tiếng ai gọi đò” (Sông lấp). Ao quê giờ còn lại rất ít. Cái nhiệt kế điều hòa của lá phổi làng giờ bị lấp đi để lấy đất xây nhà tầng, xây những chóp nhọn. Bỗng có lần tôi trèo lên gác thượng mà người cứ chênh chao như ngỡ mình đang ngồi trên mặt ao quê ngày nào mà nghe tiếng bong bóng nổi chìm nổ bung hoa mắt. Lòng cứ nghèn nghẹn lại….

                       

. . . . .
Loading the player...