21-07-2025 - 01:52

Cỏ xanh hơn nơi vạn chiến binh nằm

Kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025), Tạp chí Hồng Lĩnh số 227 tháng 7/2025 trân trọng giới thiệu tản văn “Cỏ xanh hơn nơi vạn chiến binh nằm” của Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý

Trong cỏ ấy mang chứa những gì của quá khứ mà xanh buốt đến vậy? Mỗi lần đến nơi này, trong tôi thường hiện lên câu hỏi đó. Trả lời tôi là im lặng của cỏ. Cỏ im lặng như bấy nay im lặng. Thế mà, tôi đã nghe được những thì thầm trong khoảng lặng im mênh mang và mênh mang…Những thì thầm thanh xuân từ đất đai vọng lên, tỏ mờ trong từng làn gió thổi qua Thành cổ. 

Thành cổ Quảng Trị - Ảnh nguồn: dantri.com.vn

Thành cổ Quảng Trị. Cây cỏ đã tươi xanh. Tươi xanh ngằn ngặt, tươi xanh nghi ngút như là sự bù đắp không dễ nói được thành lời. Sông Thạch Hãn không xa mấy đã là dòng chảy hòa bình, soi rõ trời xanh lồng lộng và có khi nhuộm đỏ ráng chiều rừng rực màu lửa cháy. Những đám mây màu cánh vạc có lúc cũng qua sông, khói sóng phảng phất trên mấy gợn gió ký ức của thời gian. Thời gian đi qua để chẳng bao giờ trở lại nhưng ký ức thì không phải thế; trong miền hoài niệm thăm thẳm của các cựu chiến binh hình như còn có một cuộc huyết chiến chưa chấm dứt và sự hi sinh của đồng đội luôn là dấu tích khó phai mờ nhất.

Từ trên Đài chứng tích tôi nhìn xuống, nhìn ra xa chỉ thấy cỏ. Cỏ nối nhau, dọc ngang thành một miền xanh thắm thiết; tôi chưa bao giờ đi hết được miền diệp lục lạ kỳ đó, hình như thế. Dẫu rằng, những gì xảy ra với vùng đất rộng chưa đến ba cây số vuông này ở nửa thế kỷ trước người ta đã kể lại nhiều. Trong muôn vàn câu chuyện về Thành cổ được nghe, tôi thực sự ám ảnh với câu nói của một cựu binh từng tham gia tác chiến ở đây năm 1972. Nguyên văn câu anh nói: “Nhà thơ ạ, năm 1972 ở Thành cổ Quảng Trị rêu cũng đỏ như máu”. Tôi nhập dẫn tâm thức vào câu nói của anh để bật ra hai câu khai mở cho bài thơ “Thắp cho Thành cổ” sau đó của mình: Rêu cũng đỏ như đã từng là máu/ Cỏ xanh hơn nơi vạn chiến binh nằm. Rêu và máu. Cỏ và chiến binh. Tám mươi mốt ngày đêm. Mùa hè năm 1972. Mùa hè đỏ lửa. Cho đến bây giờ, theo như tôi biết thì người ta chưa thống kê được một cách chính xác có bao nhiêu chiến sĩ ta đã hi sinh ở Thành cổ Quảng Trị. Năm nghìn hay mười nghìn? Ai đã tìm thấy hài cốt và ai đang nằm dưới cỏ, dưới đáy sông Thạch Hãn?

Ai cũng đã rõ, vì những toan tính chiến lược và chiến dịch nhằm tạo ảnh hưởng tới Hội nghị Paris được nhóm lên từ năm 1968, cả ta và địch đều tập trung ở Thành cổ Quảng Trị những lực lượng mạnh. Từ ngày 13 tháng 6 năm 1972, Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh mở cuộc hành quân mang mật danh “Lam Sơn 72” hòng tái chiếm Quảng Trị. Đối phương tập trung ở đây 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo, 5 thiết đoàn cùng sự hỗ trợ tối đa của không quân, hải quân Mỹ. Đây được coi như nỗ lực cuối cùng của đối phương để cứu vãn sự phá sản thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Phía bên kia đã không hề tiếc đạn bom dội, trút, đổ xuống Thành cổ Quảng Trị. Sau cuộc chiến tranh tàn khốc những con số này mới được tiết lộ. Từ 28 tháng 6 đến 16 tháng 9 của năm 1972 kẻ thù đã “dành” cho mảnh đất này 328.000 tấn bom đạn; tính ra mỗi chiến sĩ ta phải chịu 100 tấn bom và 200 quả đạn pháo. Thành cổ Quảng Trị thành một “túi bom” khổng lồ và đương nhiên là khủng khiếp với 150 đến 170 lần máy bay phản lực và 70 đến 90 lần “pháo đài bay” B52 ném bom mỗi ngày đêm. Báo chí phương Tây thời đó đã tính ra rằng, lượng thuốc nổ Mỹ dùng ở Thành cổ Quảng Trị bằng 7 quả bom nguyên tử mà họ đã ném xuống thành phố Hiroshima của nước Nhật trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Từ đó hình dung ra sức chịu đựng phi thường của những chiến sĩ giải phóng thế nào. Lòng yêu nước không hề bị nung chảy trong biển lửa. Và, sự hi sinh của chiến sĩ, đồng bào ta thật vô cùng to lớn. Tôi nghĩ, không thể nói hết lòng dũng cảm và sự hi sinh của bộ đội và nhân dân trong cuộc chiến đấu giành lại độc lập tự do, hoà bình, thống nhất cho Tổ quốc.

Quảng Trị. Vùng đất này nổi tiếng khắc bạc với hai mùa rất rõ rệt. Mùa nắng, nắng gay gắt như đổ lửa, nắng như trời bị thiêu cháy. Cộng thêm gió lào, cái thứ gió quái kiệt thổi giống bão khan từ hướng Tây Nam về, nóng và khô. Mùa mưa, mưa tầm tã như trút nước, mưa như trời bị thủng. Dân Quảng Trị hay chép miệng nói, mưa chi mà mưa dễ sợ, mưa thúi đất, thúi đai. Tôi từng đến Thành cổ Quảng Trị vào hai mùa, nắng và mưa. Mùa nào, thật lạ, lá cỏ vẫn nhói xanh, miên man xanh như thế. Thạch Hãn có thể đổi màu nhưng cỏ Thành cổ vẫn giữ một sắc xanh nhức buốt. Tôi biết lính tham chiến ở Quảng Trị phần đông còn rất trẻ, họ là sinh viên đến từ các giảng đường đại học, học sinh cuối cấp ba, thanh niên ở nhiều làng quê, khu phố…Trường cấp ba huyện tôi có bạn học được gọi nhập ngũ từ đầu năm 1972. Nhiều người không được trở về nơi mình đã ra đi. Chiến cuộc tàn khốc đến vậy cơ mà! Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm của mùa hè đỏ lửa đó càng tàn khốc hơn. Đất đá bị xới đào. Cỏ lau bị thiêu cháy. Nhà cửa bị tàn phá. Tan hoang. Đổ nát. Người ta bảo, sau 81 ngày đêm trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972, Thành cổ Quảng Trị không còn một viên gạch nguyên vẹn.

Bởi thế, tôi tin rằng không có gì xứng đáng hơn khi Thành cổ Quảng Trị trở thành biểu tượng của khát vọng hòa bình. Khát vọng ấy không chỉ của một người, của một ai mà của muôn người, của dân tộc, của nhân loại. Đất nước đi qua chiến tranh, không chỉ một cuộc mà nhiều nên khát vọng hòa bình càng mãnh liệt trong mỗi trái tim Việt Nam. Được sống trong hòa bình là khát vọng lớn nhất, là giá trị cao nhất của hạnh phúc con người. Ngẫm ra thật đúng. Trông lại thế giới bây giờ, thù hận, xung đột, chiến tranh còn đây đó, ngay cả ở châu lục giàu có nhất hành tinh hiện nay bom vẫn rơi, đạn vẫn nổ, chết chóc tang tóc vẫn xảy ra hàng ngày và mấy triệu thường dân phải hốt hoảng kéo đi sơ tán, lánh nạn… ta càng thấm thía hơn giá trị hòa bình. Thật nhiều ý nghĩa khi tháng 7 năm 2024, lễ hội mang tên Vì hòa bình đã được tổ chức ở Quảng Trị. Tôi nghĩ rằng, đây không phải là lúc say sưa nói chuyện thắng - thua, được - mất, chính nghĩa - phi nghĩa, địch - ta vì nó đã rõ ràng, quá rõ ràng rồi mà nên khẳng định giá trị của hòa bình, của hòa hợp, hòa giải dân tộc… Trung tâm của Khu di tích lịch sử đặc biệt Thành cổ Quảng Trị có đài chứng tích tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống nơi đây. Kiến trúc mang nhiều yếu tố tâm linh rất phương Đông thể hiện sự kết nối âm - dương đầy huyền ảo và nhân văn. Nó không chỉ khúc xạ quá khứ bi tráng mà còn bao hàm cả ánh sáng của hiện tại và mai sau. Nó hướng tới con người. Vâng, con người là trung tâm của cuộc sống trên hành tinh xanh này. Nỗi đau chiến tranh không của riêng ai, không của riêng ai cả. Có lẽ vì thế mà trong bài thơ “Thắp cho Thành cổ” tôi đã viết: Đài chứng tích nấm mộ chung liệt sĩ/ những khói hương này xin thắp cả đôi bên. Không còn lựa chọn nào khác đâu; sau những mất mát đau thương, sau nhiều chia cắt, đổ vỡ chúng ta phải thuộc về nhau, về cùng đất mẹ Việt Nam yêu dấu để dựng xây và bảo vệ Tổ quốc tươi đẹp. Chia sẻ nỗi đau buồn cũng là mở lòng thân thiện, gắn kết đồng bào, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Đừng để hận thù bị kích hoạt, chia rẽ bị nhen nhóm bởi những dã tâm đen tối của kẻ xấu.

Bây giờ tôi đã hiểu, cỏ xanh thăm thẳm có lẽ cũng vì vậy. Cỏ khâu vá những vết thương đất mẹ. Cỏ làm dịu lại đớn đau dĩ vãng. Cỏ chính là ẩn dụ của bình yên. Trên cỏ sẽ là hoa. Trên sông sẽ là hoa. Thành cổ ơi, đã qua thời máu lửa/ xin để hoa tươi được hát cho mình (Thắp cho Thành cổ - NHQ). Những nhắn gửi của người sống tới thanh xuân bất tử. Giản dị vậy thôi mà cũng vô cùng sâu lắng. Tôi cúi đầu trước cỏ, lắng nghe cỏ Thành cổ thì thầm. Ngỡ như xa xăm mà thật gần gũi. Gần gũi như hương cỏ mùa xuân của tuổi thơ, của tuổi yêu, của những giấc mơ ăm ắp khát vọng trẻ. Trong cỏ, dưới cỏ đang có một thế giới nữa, chưa bao giờ chia cắt và không hề có thù hận đang đồng hành cùng ta trong khát vọng hòa bình tươi sáng!

N.H.Q

. . . . .
Loading the player...