09-09-2025 - 00:07

Con mắt nhắm và những điều nhìn thấy

Tạp chí Hồng Lĩnh số 228 trân trọng giới thiệu bài viết “Con mắt nhắm và những điều nhìn thấy” của nhà phê bình văn học Hoàng Thụy Anh (Đọc Văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỷ XXI - Những điều đọng lại trong con mắt nhắm của Văn Thành Lê)

Trong số các cây bút thuộc thế hệ 7X, 8X, 9X và thậm chí cả thế hệ 2K hiện nay, Văn Thành Lê nằm trong top tác giả hoạt động năng nổ và đa dạng nhất. Anh là cây bút nhiều trong một và luôn giữ được nhịp sáng tạo đều đặn. Khởi đầu từ thơ với nhiều giải thưởng khi còn ngồi ghế nhà trường, Văn Thành Lê nhanh chóng chuyển hướng sang văn xuôi và tiếp tục gặt hái không ít thành tựu. Không dừng lại ở đó, anh còn chứng tỏ bản lĩnh, cá tính khó lẫn trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình. Hai tập phê bình chân dung Như cánh chim trong mắt của chân trời Lần đường theo bóng, cùng chuyên luận Noriko Matsui - Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương đều nhận được sự đón nhận tích cực từ bạn đọc và được đánh giá cao trong giới chuyên môn. Mới đây, anh tiếp tục giới thiệu đến độc giả cuốn Văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỷ 21 - Những điều đọng lại trong con mắt nhắm. Có thể khẳng định, đây là một trong những công trình khảo sát khá hệ thống và công phu về quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cũng như những biến động thăng trầm của văn học thiếu nhi Việt Nam trong bối cảnh hiện đại.

1. Ngay từ lời mở, Văn Thành Lê đã chia sẻ lý do vì sao anh gọi bài viết dài hơi của mình là tuỳ [tiện] luận. Anh tự nhận “tiện đâu nói/viết đó, dây cà ra dây muống”, “nhiều khúc lại lòng vòng”, ấy vậy mà khi đọc tập sách chúng ta không thấy bóng dáng của sự dễ dãi, chỉ có sự lựa chọn chủ đích trong cách tiếp cận, tùy/ngẫu hứng mà hệ thống, bao quát, giàu chiều sâu. Anh triển khai vấn đề từ nhiều phương diện như lịch sử, xã hội, xuất bản, tâm thế sáng tác, giải thưởng, báo chí truyền thông,… để phác họa toàn diện diện mạo văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

Không nhân danh nhà lý luận, không triển khai theo lối nghiên cứu nặng tính học thuật, Văn Thành Lê viết với phong thái tự do, khi nghiêm túc, khi giễu nhại như cách anh từng tung tẩy cái tạng thích đùa trong văn xuôi của mình. Anh khiêm tốn coi đây chỉ là góc nhìn cá nhân “non một chuyên luận mà già một tuỳ luận” của mình nên sẵn sàng đón nhận cả người đồng hành, kể cả là phải nghe tuýt còi.

Trước hết, khảo cứu văn học thiếu nhi Việt Nam, Văn Thành Lê đặt vấn đề trong dòng chảy lịch sử văn chương từ Robinson Crusoe (1719), Gulliver du ký (1726), Oliver Twist (1839), Không gia đình (1878), Hoàng tử bé (1943),… đến Harry Potter (1997-2007). So với bề dày đó, văn học thiếu nhi Việt Nam còn khá non trẻ, mới “dợm chân bước vào đường piste” với những tác phẩm mở đầu như Quả dưa đỏ (1925), Dế Mèn phiêu lưu ký (1941)...  Anh ví von giọng nửa trầm tư, nửa giễu nhại, khi văn học thiếu nhi thế giới đã “chạm khắc thêm những tác phẩm sum suê trên đỉnh núi” thì ta vẫn mải miết leo dốc, thậm chí nhiều người bỏ cuộc hoặc rẽ ngang khi niềm đam mê cạn vơi. Và khi văn học thiếu nhi thế giới thăng hoa bước sang nhiều nền tảng nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, nhạc kịch,… thì ta vẫn loay hoay tìm đường. Lối so sánh giàu hình ảnh này đã lay thức, nhắc người viết biết mình đang ở đâu, và có thể đi xa đến đâu với điều kiện còn giữ được tình yêu văn học thiếu nhi. Vì lẽ, ta không thể so một nền văn học non trẻ với cả thế giới đã tích lũy hàng trăm năm thành tựu. Thứ nữa, văn học không có đường tắt, chỉ có thời gian, nền tảng và sự cộng hưởng. Tư duy “châu chấu đá voi” do đó chỉ làm ta thêm ảo tưởng và dễ lạc lối.

Với các giải thưởng, cuộc thi như Đóa hoa đồng thoại, Dế Mèn, Kim Đồng, theo anh, phần lớn chỉ dừng ở mức khích lệ, thiếu những phát hiện dài hơi. Trại sáng tác, có, nhưng thường bị coi như “trại dưỡng lão”. Văn học thiếu nhi, dù được ngợi ca là cho tương lai, vẫn là dòng chảy bên lề ít được đầu tư và thấu hiểu.

Với văn học fantasy và sci-fi, Văn Thành Lê dẫn dắt từ Harry Potter đến Chuyện xứ Langbiang, từ Phan Hồn Nhiên đến các cây bút gen Z, rồi nhẹ nhàng chốt lại sự thật in được 2.000 bản mà không tồn kho đã là “mừng hết lớn” dù cái “mừng” ấy nhiều khi chỉ như bữa tiệc thiếu người ăn. Truyện lịch sử từng một thời rực rỡ thì nay “đứt gãy”, đến mức trẻ em “chỉ biết bóp nát quả cam, xong rồi không biết bóp thêm quả gì hay làm gì nữa”. Giọng phê bình của anh hàm chứa cả nụ cười lẫn nỗi đau. Đó là nụ cười của người trong cuộc đã thấu hiểu căn nguyên. Và đó cũng là nỗi đau của kẻ càng hiểu càng không nguôi trăn trở.

Văn Thành Lê hết sức quyết liệt khi đề cập đến vai trò của Hội Nhà văn Việt Nam đối với văn học thiếu nhi. Dẫu được xem là ngôi nhà chung của giới cầm bút, nhưng tổ chức này nhiều lần bỏ rơi văn học thiếu nhi như thể đó là một đứa con không danh chính ngôn thuận. Sự thờ ơ này theo anh không phải là hiện tượng cá biệt, có vẻ nó đã trở thành biểu hiện có tính hệ thống và được anh trích ngang đầy đủ lý lịch. Suốt hơn hai mươi năm qua, Hội gần như ngó lơ văn học thiếu nhi, chỉ mới lục tục phục hồi giải thưởng từ năm 2021.

Anh còn làm rõ lỗ hổng lớn khác, từ năm 1980 đến nay, ta chưa có nổi 50 cuốn nghiên cứu, phê bình văn học thiếu nhi. Con số quá ít ỏi nếu đặt bên cạnh hàng nghìn đầu sách phê bình văn học nói chung. Anh không trách cứ cá nhân, không đánh đồng đổ lỗi tập thể, song anh dám điểm mặt chỉ tên thực trạng đáng buồn của tổ chức nghề nghiệp đang dần xa rời thực tế sáng tạo. Sau hơn 20 năm tồn tại, hiệu quả của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn học Nghệ thuật trẻ em chỉ vỏn vẹn ba hội thảo và các chức năng nhiệm vụ vẫn còn rất cầm chừng. Viện Văn học cũng không đả động gì đến văn học thiếu nhi. Ngay cả Từ điển bách khoa Việt Nam cũng thiếu mục từ Văn học thiếu nhi, chỉ nhắc duy nhất Dế Mèn phiêu lưu ký.

2. Văn Thành Lê bước vào địa hạt phê bình văn học thiếu nhi với tâm thế lắng nghe và sẻ chia chứ không phán xét, áp đặt như kiểu từ vị trí người cầm trịch, bề trên ngó xuống. Lối viết nghiêm túc mà hóm hỉnh giúp anh giữ được sự tỉnh táo trong cách nhìn và sự mềm mại trong diễn đạt, từ đó khơi vẫy những cuộc đối thoại giữa người lớn và thế giới trẻ thơ.

Là người trực tiếp sáng tác văn học thiếu nhi, Văn Thành Lê mang theo kinh nghiệm và trải nghiệm thực tế của một cây bút trong cuộc khi bước vào địa hạt phê bình. Anh thấu hiểu những trăn trở, niềm vui và cả những thách thức khi dệt nên thế giới cho trẻ thơ. Do vậy, những nhận định trong tập sách của anh là khách quan, thấu đáo, đầy tính xây dựng.

Từ góc nhìn của người trong cuộc, Văn Thành Lê chỉ ra một trong những vòng kim cô kìm hãm văn học thiếu nhi Việt Nam từ bấy đến nay đó chính là “tính giáo dục” bị áp đặt một cách khô cứng, khiên cưỡng. Không phủ nhận chức năng giáo dục nhưng anh đòi hỏi chức năng ấy phải được mềm hóa qua sự tưởng tượng, trò chơi, ngôn ngữ nghệ thuật hơn là kiểu áp đặt hay giáo điều. Cái vòng này đã đeo vào văn học thiếu nhi Việt Nam quá lâu đến mức người viết quên cả cách bọn trẻ mơ mộng, nghịch ngợm, hồn nhiên đúng với lứa tuổi của chúng. Anh lý giải văn học thiếu nhi Việt Nam nặng tính giáo dục là do ảnh hưởng của Nho giáo kéo dài hàng nghìn năm cùng với bối cảnh lịch sử đấu tranh đòi hỏi văn chương phải phục vụ tuyên truyền lý tưởng cách mạng và giáo dục đạo đức, lối sống. Hoàn cảnh này tạo ra quán tính dẫn đến văn chương trở nên giáo điều và áp đặt. Từ góc nhìn này, anh thể hiện cái nhìn tổng quan khi so sánh với văn học thiếu nhi thế giới. Ngay cả thế giới cũng phải mất hai thế kỷ mới có thể đẩy được tính giải trí lên trước, điều đó cho thấy con đường đổi thay không dễ dàng nhưng vô cùng thiết yếu.

Khi nhìn vào sự chuyển mình của văn học thiếu nhi từ đầu thế kỷ XXI, anh ghi nhận thế hệ cây bút 8X-9X như Nguyễn Thị Kim Hòa, Dy Duyên, Lê Quang Trạng… Họ mang theo trí tưởng tượng, cảm xúc, niềm vui sống, viết gần gũi với trẻ hơn, bắt được tần số giọng của trẻ chứ không nói thay người lớn. Anh đánh giá Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần là ngôi sao lấp lánh đầu tiên trong bầu trời văn học thiếu nhi sau năm 2000, và đồng thời tiếc nuối khi Nguyễn Ngọc Thuần đã rẽ sang viết cho người lớn. Anh phân tích kỹ Ra vườn nhặt nắng như dấu mốc đổi mới về tư duy và hình thức trong thơ thiếu nhi; nhận ra cái hóm hỉnh rất riêng của Nguyễn Thị Kim Hòa trong Cút cà cút kít; ghi nhận tinh thần trẻ thơ của Dy Duyên trong Cúc Dại và Tia Nắng; hoặc thấy sự tự nhiên nhuần nhụy của Bùi Tiểu Quyên trong Cà Nóng chu du Trường Sa.

Anh phê bình thái độ dễ dãi cùng sự ngộ nhận của người lớn về tuổi thơ. Cái gọi là “viết cho thiếu nhi” từ đã lâu bị xem nhẹ, tùy tiện như kiểu “tiện tay nhả chữ”, như “vắt ra thử liền, chả chết bố con nhà nào”. Với những tác giả lớn tuổi quay lại viết thiếu nhi, anh khẳng định khi đã xa tuổi thơ, giọng văn dễ chệch nhịp, cảm thức thẩm mỹ không còn bắt kịp nhịp đập của độc giả nhỏ tuổi. Thơ thiếu nhi của Vũ Quần Phương từng đầy chất thơ khi viết cho con nhưng khi viết cho cháu trong tập Thơ tặng tuổi thơ, anh cho rằng nên “giữ làm của riêng” thì thơ ông thời trước mới “nguyên vẹn lấp lánh”. Với tập Chuyện của anh em nhà Mem và Kya của Nguyễn Quang Thiều, anh phê bình dứt khoát: “trẻ con không thể nói những câu dài đến đứt lưỡi và xoắn não như vậy”. Những nhận xét ấy không nhằm phủ nhận giá trị của tác giả, điều anh muốn bộc bạch là cần trả tác phẩm về đúng vị trí trong cảm thức thẩm mỹ và nhu cầu của độc giả nhỏ tuổi.

Phê bình của Văn Thành Lê dựa trên nền tảng quan sát cụ thể, dữ kiện xác thực và đời sống đang diễn ra. Đối tượng phân tích của anh trải rộng từ tác giả, tác phẩm đến họa sĩ minh họa, quy trình xuất bản và cả văn hóa đọc. Khi nhắc đến các họa sĩ như Tạ Huy Long, Kim Duẩn, Phạm Quang Phúc, Thái Mỹ Phương,… anh thể hiện sự am hiểu tỉ mỉ đối với từng yếu tố cấu thành cuốn sách thiếu nhi. Anh còn đề cập trực diện các vụ việc nóng như Quà cho con, tập thơ nôm na thiếu chiều sâu nhưng lại được truyền thông tung hô. Hoặc Bắt nạt không sai nhưng bị sử dụng sai ngữ cảnh khiến phản ứng của dư luận trở nên méo mó. Những nhận định như “tác giả và công ty sách đều thắng, chỉ độc giả thua” hay “Bài thơ Bắt nạt không có tội để bị bắt nạt như vậy” cho thấy giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng, không gay gắt, đủ sức đánh động tư duy bạn đọc của anh.

Văn học thiếu nhi từ lâu đã rất cần tiếng nói đủ sâu sắc, dũng cảm để soi chiếu, nâng đỡ và khơi thông những bế tắc. Trong bối cảnh hoạt động phê bình văn học thiếu nhi còn ít đụng chạm, thiếu sự chân thật, sự xuất hiện chuyên luận Văn học thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỷ XXI - Những điều đọng lại trong con mắt nhắm của Văn Thành Lê mang ý nghĩa như một lời đáp từ kịp thời và cần thiết cho những nhu cầu cấp bách đó.

Không dừng lại ở giá trị chuyên môn, Văn Thành Lê còn gây ấn tượng bởi việc duy trì giọng điệu hài hước, dí dỏm, đôi khi châm biếm khiến người đọc nhiều phen cười ra nước mắt hệt như trong văn xuôi của anh. Và “điều đọng lại” nơi người đọc sau khi dạo bước trong khu vườn văn học thiếu nhi mà anh cần mẫn bao quát, lai dắt và hóm hỉnh dẫn đường có lẽ là cái cảm giác thích thú, sảng khoái bởi cách nói thật, nói thẳng, nói đúng, nói trúng đầy tinh tế, sắc sảo của anh.

Câu viết “Tôi nhắm mắt lại. Và tôi thấy...” có thể xem là cách chiêm nghiệm nghệ thuật riêng khác của Văn Thành Lê. Nhắm mắt để tự mình quán chiếu vào sự tĩnh lặng, thấy xa hơn, sâu hơn những được mất của văn học thiếu nhi. Thấy cái cần thay đổi, thấy cái nên giữ lại và thấy những mầm xanh đang trồi lên. Vì vậy, đọc xong cuốn sách của anh, hẳn trong lòng chúng ta cũng dấy lên biết bao nghi vấn không dễ trả lời. Liệu chúng ta, những người lớn, đã thực sự nghiêm túc, hài hước và tràn đầy yêu thương để viết về/cho trẻ thơ chưa?

H.T.A

. . . . .
Loading the player...