20-02-2023 - 07:21

Nhà thơ xứ Nghệ: Thạch Quỳ

Tạp chí Hồng Lĩnh số Tết Quý Mão (197+198) trân trọng giới thiệu bài viết “Nhà thơ xứ Nghệ: Thạch Quỳ” của Nhà Lý luận phê bình Hà Quảng

Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941 tại thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là người thông thạo Hán học, thân mẫu tuy không biết chữ nhưng lại thông thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, truyện Kiều... Năm 1960, ông học ngành Sư phạm Toán tại trường Đại học Vinh, Sau khi tốt nghiệp đại học, ông có một thời gian làm giáo viên Toán cấp 3 tại Nghệ An sau đó công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An, ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản 9 tập thơ: Sao và Đất (1967- in chung cùng nhà thơ Quang Huy), Tảng đá và nhành cây (1973), Nguồn gốc cơn mưa (thơ thiếu nhi 1978), Con chim Tà vặt (1985), Cuối cùng vẫn một mình em (1996), Đêm Giáng sinh (2004), Tuyển thơ Thạch Quỳ (2009), Bức tượng (2010) và Thạch Quỳ - Tuyển tập thơ (2018).

Nhà thơ Thạch Quỳ sinh trưởng trong dòng họ Vương có truyền thống hiếu học ở Đô Lương (Nghệ An). Ông bước vào làng thơ bằng bút danh Thạch Quỳ như để kỷ niệm tên hòn núi Quỳ trên quê hương: “Núi Quỳ bé mà sao nhiều đá thế/ Tuổi chăn bò hốc đá trú mưa/ Hoa chổi rụng dưới cánh ong bò vẽ/ Đá trắng phơi đầy trời nắng trưa.

Sự im lặng và sự nhẫn nại của đá, sau này vào thơ Thạch Quỳ như một bản sắc. Thạch Quỳ vốn giỏi toán, thầy giáo Vương Đình Huấn cũng có đến 11 năm dạy toán ở trường trung học trước khi chuyển qua nghề Văn mang theo cái tính gàn như một cốt tính dĩ nghiệp.

Nhớ lại hồi còn dạy học ở Vinh và là thành viên hội VHNT Nghệ Tĩnh, tôi thường hay gặp Thạch Quỳ trong những lần sinh hoạt Hội . Đôi lúc đến thăm anh tại nhà riêng. Mới gặp Thạch Quỳ gây ấn tượng ngay, khuôn mặt gầy, đôi mắt có vẻ đăm chiêu và những đường nhăn trên trán, trên má gợi sự suy tư, tương phản với nụ cười thân thiện ấm áp. Giọng nói hơi gắt, cái âm sắc xứ Nghệ nhất là những khi tranh luận. Dạo ấy, thời chiến tranh bao cấp các nhà thơ, nhà giáo được so sánh bằng hai nhà nghèo, các thi sĩ như XH, QA, TQ đều làm thêm nghề phụ để sống, hoặc quấn thuốc, làm bánh kẹo, gia công bao bì… Gia đình nhà thơ Thạch Quỳ  vót tăm tre và chế tác thịt bò khô. Nhà ngổn ngang, anh vẫn vui chuyện. Ngày lo việc mưu sinh, anh dành thời gian làm thơ  đọc sách vào buổi tối, đôi mắt luôn quầng thâm vì thức đêm. Trò chuyện, ông bảo, viết phê bình ông tin tôi! Lúc bấy giờ tôi biết ông nói vậy là  nghĩ về cái tính chân thật thẳng thắn của tôi trong bàn luận văn chương, chứ không cốt nói về tài năng hay sự uyên thâm về trí tuệ. Câu nói vui thế mà giờ đây tôi vẫn nhớ. Thạch Quỳ rất nhiều bạn thơ, vây quanh anh nhiều tác giả trẻ luôn gặp gỡ trà lá đàm đạo chuyện văn chương, chuyện nhân tình thế sự. Ông thích một số cây bút trẻ chưa ra ánh sáng.

Nhà thơ Thạch Quỳ được xếp vào thế hệ cầm bút chống Mỹ. Dấu vết thi ca phục vụ chiến đấu và sản xuất còn lưu lại trong nhiều bài thơ (“Trở lại thôn Yên, Bài hát của những người nhổ cỏ năng cỏ lác…, Mừng hợp tác xã Nhân Hòa trừ xong nạn sâu keo sau lụt  hay  Tiễn em trai đi vào, tiễn em gái đi ra” ). Thơ anh nhập vào dòng  mạch thơ hào hùng, lạc quan mang khí thế của một vùng đất giàu truyền thống CM. Những bài thơ ấn tượng một thời như Gạch vụn thành Vinh, Gom nhặt trên bãi bom B52… Thơ ông giàu tính hiện thực, cũng tràn đầy Chủ nghĩa lạc quan. Đó là những năm tháng đất nước gồng mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cả Dân tộc nghèo khó, nhiều thành phố làng thôn tan nát, nhân dân chịu bao hy sinh, mất mát nhưng tất cả một lòng, vẫn thấy “sắc hồng cười trong gạch vụn”. Những câu thơ đau nhói vì bom đạn giăc tàn phá quê hương Mảnh bom giặc còn găm trong thịt đất/ Tôi rút ra và thấy máu tươi (Gom nhặt trên bãi bom), bên cạnh lại bừng lên một  thành Vinh thân yêu gan dạ tự hào:… Có thành phố nào như thành phố này không/Chưa thấy nhà cao chói lọi sắc Hồng/ Đã thấy sắc hồng cười trong gạch vụn /..Thà làm gạch vụn để chờ nhau.. (Gạch vụn thành Vinh). Tình yêu kết nối  mỗi người với gia đình và Tổ quốc, vang lên âm điệu tự hào :“Tôi đi cùng nhân dân, đội nón lên đầu/ để lòng mở cùng cây xanh ngóng nước”...Cả nước chung một chiến hào, ông tự hào xúc động về tinh thần chiến đấu hy sinh của những chiến sĩ quân giải phóng miền Nam trong đó có những người bạn một thời  ở quê hương và sự thất bại thảm hại quân giặc: Anh vụt đứng trên đôi chân dập nát…/ Xác xe tăng bẹp dí chân cầu…( Nhớ Huyến ). Cộng hưởng tình yêu hai miền trong lửa đạn Thạch Quỳ nhìn đàn trâu qua tuyến lửa với một tấm lòng đầy cảm khái: Chân sưng húp hãy còn móng cứng/ Vượt trưa nắng đèo Ngang dốc dựng/ Xuống hố bom đầm nước lút mình/ Đỉnh sừng nhô hai hạt nếp trắng tinh (Trâu đi).

Làng Đông Bích quê ông, có rú Cuồi (núi Quỳ) khiêm nhường giữa một vùng mênh mông bán sơn địa. Tuổi chăn trâu Vương Đình Huấn đã làm quen với bùn đất, cây cỏ, chim muông và hòn núi Quỳ, tât cả vào thơ ông như một duyên nghiệp. Ông gắn bó với thiên nhiên, với đất đai, với con người..,quê kiểng, những cảnh trí thân yêu đa dạng luôn hiện về trong thơ ông: Hoa dứa, Con chim tà vặt, Tiếng chim, Lục bát về Thông, Đá trên đỉnh núi Quì..Tình quê bàng bạc: Nghe đất đai giục giã tiếng mùa màng/ Nghe đất trổ xóm làng đang mọc dậy, thấy một dấu chân chim/ trên tảng đá ngàn năm lặng lẽ/ bao lớp sóng trào lên như sóng bể/ lòng đã thầm giữ lại nếp hoa vân (Tiếng chim)

Ông cảm nhận những con vật đồng ruộng quen thuộc đến mức hòa đồng Con cá ngửi vết chân bùn bỡ ngỡ/ Nổi mắt tròn ngơ ngác, nhận ra tôi, và  thấu hiểu nỗi cơ cực của những người làm ruộng như của người thân: Nhổ lác, nhổ từng cây/ Nhổ năn, măn từng rễ/ Nước teo da bàn tay/ Bắp chân bầm máu đỉa/ Lưng cúi gập suốt ngày/ Ngửng lên, nghe nặng mặt.

Thạch Quỳ nhà thơ sống cả đời, sống tận tụy với xứ Nghệ và chia sẻ từng niềm vui, nỗi đau của xứ này từ một di chỉ bé nhỏ Vực Cóc đây thăm thẳm một hang trời  đến  xứ  Ba Ra trắng xóa muôn nghìn thác bạc, cùng với làng Đông Bích Nghe đất đai giục giã tiếng mùa màng và rú Cuồi bao lớp sóng trào lên như sóng bể… Chính cái tình quê nồng hậu và nhiệt tình sôi nổi với mạch sống hào hùng của đất nước những năm cuối thế kỷ, đã khiên thơ ông gắn bó với tâm tình mọi người và ông đã trở thành một nhà thơ có nhiều “fan” hâm mộ một thời.

Thơ Thạch Quỳ chủ yêu là thơ trữ tình thế sự, bày tỏ những suy cảm về cuộc đời về thế thái nhân tình, một số viêt về quê hương, về lịch sử, tuy vậy ông vẫn có một mảng thơ về tình cảm gia đình , tình yêu, tình bà cháu khá ấn tượng. Thạch Qùy với vẻ ngoài thô ráp khắc khổ nhưng lại ản giấu một trái tim tha thiết dịu dàng, Là một thi sĩ đa tình, về Nghi Xuân, vào Huế  đến đâu anh đều có thơ kỷ niệm. Một vũ công với điệu múa trong đêm gặp gỡ giao lưu, ông cảm xúc:

Rượu nâng sóng nhạc ngang mày

Em lững thững giữa đêm bày chiếu hoa

Xáng xề sông đổ về xa

Xáng xề phách nhịp đổ qua hồn mình

Ai ngâm khúc nhạc cung đình

Để ai thương cả Hoàng thành cỏ rêu..

                                        (Đêm sông Hương).

Nhớ lần cùng chúng tôi đi thực tế viết về thủy lợi vùng hồ Kẻ Gỗ, vào một ngày anh ra về, bảo “đi với người yêu mình mới có thể viết hay hơn” quả thật  sau đó anh có bài thơ dài về Thủy lợi khá hay. Tôi nghiệm rằng, Thạch Quỳ là nhà thơ luôn cần tình yêu xúc tác để nâng tầm cảm xúc trước các thi đề dẫu mới hay cũ, thoáng qua hay lâu dài. Có tình yêu là men nồng thi hứng trong anh sẽ dâng trào với những câu thơ dạt dào sinh động! Anh có những câu thơ tình yêu đẹp đến dung dị, lặng thầm mà xốn xang, đợi chờ mà thánh thiện. Tình yêu tha thiết nhớ nhung, những câu thơ mềm dịu gợi cảm với bao hình ảnh sống động: Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước/Góc vườn con hoa mận đã đơm khuy
Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc/Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về.

Và có khi đầy mộng tưởng: Có một nửa đang đi tìm một nửa/ Như vầng trăng ngoài cửa, phía trời xa. Hay pha chút bẽ bàng: Em trong sạch và anh tinh khiết /Muốn vào đời/ Không có giấy khai sinh/

Giàu chất trữ tình thế sự, anh cũng là nhà thơ của những triết lý, chiêm nghiệm. Triết lí qua bề dài lịch sử: Lưỡi gươm ròng ròng máu tươi/ Nước mắt ướt đầm yên ngựa/ Chỉ có đất với trời và cỏ/ Hiểu đường đi của giọt máu người” (Qua đền Cuông ghi chuyện cũ); triết lí qua cả những định đề toán học cái đường thẳng nằm trong hình học. Tính ẩn dụ hai mặt cuả hình tượng thơ  Toán và Đời, cùng tụ về chung một xác  tính trong trái tim người.. …Cái đường thẳng nằm trong hình học/Theo suốt đời, âm ỉ tận trong tôi…/ Đường ta đi từ quá khứ đến ngày mai/Hiện bắc qua mỗi tấm lòng trăn trở/ Đường thẳng luôn bài xích những cong queo/Và gạt bỏ những lối mòn có sẵn/ Đường thẳng nói về những miền vô tận/Mà nghe như âm ỉ giữa tim mình

“Người Nghệ - Tĩnh can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan, tằn tiện đến cá gỗ” (Nguyễn Đổng Chi). Nét riêng này đã ảnh hưởng ít nhiều đến các tác giả gắn bó khăng khít với mảnh đất miền gió lào, cát trắng, với tâm lí cộng đồng thẳng thắn và cứng cỏi.

Thạch Quỳ  phần nào mang bản tính của miền quê,  đôi lúc cứng cỏi đến gàn dở và cực đoan - người ta thường gọi là “cái gàn của anh đồ Nghệ” mà đã thành một đặc điểm của con người cùng văn hóa xứ này, nó đã lan vào cái cá tính “ông đồ nghệ Thạch Quỳ” phần nào thể hiện  trong sáng tạo của anh.

Nghi vấn, băn khoăn, phẫn nộ… tâm trạng của một lớp người trong những thời khắc gió bão mông lung của cuộc sống. Con người đã từng:Tôi muối mặn với cuộc đời dân dã/ Tôi áo cơm no đói với ngày thường… Từng đối mặt với bạo tàn, chết chóc/ Máu trào tuôn, sẹo đóng tự trong hồn/ Tôi mệt mỏi đến không còn sợ chết/ Nhưng vẫn lòng ham sống thật tôi hơn! (Tôi) Mà nay,  đã viết: Bàng hoàng giữa một ngày/ Mình sống hay chẳng sống?(Không đề); Nghìn năm mưa đã từng mưa/ Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào? (Lời nghìn năm); Tôi chờ ai nữa? Mùa thu rộng/ Gió thả bên trời lá liễu bay (Mây trắng mùa thu)…

Tìm hiểu cốt cách người Xứ Nghệ trong thơ Thạch Quỳ cũng chính là tìm hiểu bản sắc riêng của văn hóa từng vùng miền khác nhau. Thơ dù đổi mới, cách tân đến đâu nhưng nếu đánh mất bản sắc của mình, của quê hương mình, của dân tộc mình thì khó lòng có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.

Nhà văn Trần Hữu Thung, một người rất mến Thạch Quỳ, lúc sinh thời, trong một lần tôi được hầu rượu ông và nhà viết kịch Nguyễn Tường Lân, hai ông bàn chuyện Hội và chuyện thế sự. Cụ Trần bảo thời nay luật lệ nó nháo nhào, Luật không nghiêm còn Lệ thì bát nháo. Luật là phép nước là rường cột của cái sườn nhà, phải nghiêm chỉnh vững chải nhà mới chắc chắn, Lệ  là những qui ước thói quen của làng xã , của từng nhóm cộng đồng nhỏ, nó như rui mèn của cái nhà. Nó mà lấn át cột kéo xà hoành lẫn lộn, nhà dễ lung lay, sụp đổ lắm. Thời Thạch Quỳ, ông thất vọng nhiều về các phép tắc Luật, Lệ,  trật tự xã hội, nhiều thói xấu, sự giả trá lộng hành, tâm trạng cực đoan có khi thất vọng nhìn toàn màu tối, anh mượn thơ ca bày tỏ sự bất bình. Có người không hiểu cho là gàn!

Với con, bàì thơ ông viết trong tâm trạng đó: Con ơi con, trái đất thì tròn/ Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật/ Tất cả đấy đều là sự thật/ Nhưng cái bánh đa vừng tròn, điều đó thật hơn!/….Cha mong con lớn lên chân thật Yêu mọi người như cha đã yêu con!. Ông thấy mình như lạc lõng trước thực tại. Thạch Quỳ lo âu, dằn vặt trong những suy nghĩ ngổn ngang trước cuộc sống, trước thế tục Điều tôi biết, người xưa đã biết/ Cuộc phù du ớn lạnh ở da mình/, Thạch Quỳ suy nghĩ về những bi kịch lịch sử: Màu lông ngỗng ngây thơ trong trắng quá/ nên máu người phải đổ Mỵ Châu ơi.../, hay chiêm nghiệm về một triết lý của sự tồn tại, lẽ bại vong: Ở đền Công con nghê đá không cười/ Màu ngói đỏ như màu của máu/ Con trai ngọc ôm khối hồng đau đáu/ Nghìn năm rồi nước mắt rửa không tan. (Qua đền Công ghi chuyện cũ)

*

Thạch Quỳ nhà thơ được nhiều độc giả ưa thích. Tuy giờ đây ông viết hơi ít. Thơ ông khá đa dạng, có nhiều bài rậm rạp nhiều chi tiết, có những bài khái quát như một định đề toán học, dài ngắn khác nhau, thể thơ cũ mới cũng tùy biến, như bài nào cũng chứa đựng một lối tư duy sắc sảo, một ngôn ngữ riêng biệt. Thơ Thạch Quỳ ít khoa trương, trau chuôt từ ngữ, câu kéo, mà mạnh về ý tưởng.

Thạch Quỳ cũng biết cách làm mới các thể thơ cũ như  thơ năm chữ, thơ lục bát… ( Lục bát về thông, Con chim tà vặt…). Có thể anh chậm lại trong sự đổi mới tân kỳ so với một số tác giả đồng hương ở thế hệ sau này, tuy nhiên trong vẻ đẹp truyền thống thơ lưu anh giữ ở bề sâu tâm hồn một sắc thái riêng, đó là phong cách thơ Thạch Quỳ: sâu lắng, chân thật và giàu suy tư - một vệt riêng trên con đường thi ca đậm cốt cách Xứ Nghệ./. 

H.Q

. . . . .
Loading the player...