02-11-2014 - 00:45

Tác giả Tống Phú Sa

Nữ tác giả Tống Phú Sa sinh năm 1975, quê Sơn Hòa, Hương Sơn, hội viên chuyên ngành Thơ, hiện công tác tại trường THPT Minh Khai, Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Tác giả:  Tống Phú Sa
Sinh ngày 21 tháng 3 năm 1975
Nơi sinh:  Sơn Hoà – Hương Sơn – Hà Tĩnh
Trú quán: Đức Thọ - Hà Tĩnh
Địa chỉ nơi công tác: Trường THPT Minh Khai- Đức Thọ- Hà Tĩnh
Trình độ chuyên môn : Đại học
Năm vào Hội địa phương : 2002, Chuyên ngành Văn xuôi
Ngày vào Đảng :    31/7/2000
Điện thoại 0949. 310.318         Email :   tongphusa74@gmail.com
Tác phẩm đã công bố : Có nhiều tác phẩm được công bố ở các báo,tạp chí trung ương và địa phương
Tác phẩm tự chọn : 
 
CÁI TÌNH TANG
                                                                                                                                                                                                                                  ( Truyện ngắn )
 
Tiếng kèn đám ma eo óc, tiếng nhị rưng rức và những âm thanh cắc bụp từ tiếng trống căng chùng mặt da tạo nên những âm thanh hổn tạp và buồn  seo thắt…Lão nói, bọn lão, dăm bảy kẻ chằng đụp vá víu nhau, sống tạm bợ trong căn lều  dưới dốc Bọ Trai. Đi một quãng ngắn là bãi đá mênh mông , là nơi cho bọn lái gỗ đổ hàng mỗi lần xuôi từ miền thượng về. Dòng sông ngập tràn cả bãi đá vào những ngày nước lên. Phù sa ngầu đục, đỏ òng phết những đường dài lên cây cối dọc hai  bờ sông. Vào mùa mưa, nước cuộn cuộn gầm thét, tưởng chừng cuốn trôi cả bãi đá và cây cầu lừng lững bắc qua sông.
      Lão nói, đời lão cực hơn cả con chó hoang  sống chặp vìu ngoài bãi rác.Lão và thằng con bốn tuổi khi buộc phải rứt ra khỏi căn nhà đó đã quây lều sồng bầy bừa bên cạnh khu nghĩa địa. Dưới dốc là bãi rác. Ở đó, lũ chó hoang nhiều vô kể, chúng hơn lão sự tinh mắt, thính mùi và nhanh nhẹn. Vì vậy, chúng đánh chén hết những thức ăn thừa như thịt hộp, cá biển rim mật, có khi là nửa ổ giò đã bốc  mùi. Khi cha con lão tay bị, tay gậy lê được đôi chân tím bầm đến nơi thì lũ chó đã no nê, lười biếng nằm ghếch mỏm gặm những khúc xương bò khô quắt. Lũ chó cái xổ bộ lông tướp táp, gầm gừ trong cổ họng xua đuổi cha con lão.
 Những ngày mưa gió xập xìu, cha con lão ôm nhau nhịn đói trong căn lều thưng bằng nứa bóc đập dẹt lấy từ những chiếc mả mới chôn. Bầy chó hoang tru lên từng hồi. Cái lạnh thấu xương ở một triền đồi hun hút gió khiến lũ chó chịu không thấu. Chúng lần lượt bỏ bãi rác. Chỉ còn cha con lão và con chó cái già què một chân là trụ lại. Một chiều, con chó cái già ngoặm nửa ổ bánh mì, mon men đến gần lều . Đêm ấy, thằng bé sục cả hai tay hai chân, úp mặt vào bầu vú thỏng thẻo của con chó cái, ngủ say giấc.
Con chó sống với cha con lão được nửa năm thì bị  bả chết. Lão bỏ bãi rác và khu nghĩa địa, dắt thằng con đẹn sài, gầy tóc teo ra bến thuyền dưới dốc Bọ Trai. Chủ thuyền nhận lão làm chân chạy “cát”, nhưng  trừ ba mươi phần trăm lương vì có mang theo “của nợ”. Dù vậy, lão cũng thấy mãn nguyện vì từ nay con lão có nhà để ở, có miếng cơm của người để ăn. Thằng bé nhanh nhẹn, theo cha ngược thuyền lên mạn ngược để hút cát, xuôi  chợ ven sông mua thức ăn cho hai cha con. Mỗi chiều nắng đẹp, khi thuyền đã đầy ắp , cha con lão lại xuôi dòng về bãi đá dưới dốc Bọ Trai. Thằng bé ê a đánh vần, thuyền bẻ lái, lướt nhẹ thênh thênh. Ráng chiều hắt lên mặt sông những tia rực rỡ, xuyên thủng mạn thuyền, phơn phớt trên hai gương mặt, một gìa, một trẻ.
    Ngày giữa tháng, nước sông bãi đá lên nhanh. Thuyền của  lão chưa kịp đổ hàng, neo lại giữa dòng nước mênh mông. Con thuyền gỗ chao lắc cùng những đợt sóng tấp vào mạn . Lão điếng người khi những bụm nước lớn lè lưỡi  và dốc tuột từng ang nước lớn vào thuyền. Mũi thuyền chúi xuống, sức nặng của hàng chục tấn cát nhanh chóng kéo con thuyền, chìm dần, chìm dần.
    Lão kẹp thằng con vào nách, tay bám riết lấy đuôi thuyền. Người lão cứng đờ vì lạnh, nhưng lão vẫn còn đủ tĩnh táo để nghĩ cách vào bờ. Những ngày nước lên tràn bãi đá thường là những ngày mưa lạnh xập xìu, người có mặt ở bến sông cũng đã nhanh chóng rúc vào chăn để ngủ. Lão phải bơi vào bờ trước khi con thuyền chìm hẵn.
 Nước rút. Người ta phát hiện ra lão ngất lịm trên bến thuyền. Thằng con trai sáu tuổi nằm gọn trong cánh tay gầy tím tái của lão. Đứa bé đã chết từ lúc nào, mái tóc lơ phơ bết nhèo, cặp mắt mở to hoảng sợ. Lão chôn cất con dưới ghềnh đá, bỏ nghề xúc cát, quây lều sống dưới dốc Bọ Trai, cách mộ  con một quãng. Lão sống dặt dẹo, buồn teo tái từ ngày thằng bé mất. Lão ăn ngủ vạ vật, khi nhớ con, lão lôi kèn nhị lên mộ , nỉ non ai oán đến đói lã. Lâu dần, lão quen nghề, kiếm thêm mấy anh em có cuộc đời buồn như đời lão, sống  bằng nghề kèn trống đám ma eo óc, não ruột.
    Một dãy lều bạt vá chằng đụp của dân cửu vạn, của kẻ ăn mày khắp xó xỉnh , của lão và đám bạn tứ cố vô thân. Ở chổ lão không khi nào đỏ lửa, bọn họ ních bất cứ thứ gì vào bụng rồi tha xác về lều. Buồn nhất là những ngày tết, không có đám ma để kèn trống, cửu vạn không người  thuê, cả bọn nằm chòng queo, đói rã cả họng. Những ngày ấy, lão là người  buồn nhất. Lão nhớ con, lần mò ra mộ ngồi kéo nhị đến bong cả hai bàn tay. Lão thảng thốt nhìn ra bãi đá mênh mông, thằng con trai bạc mệnh của lão đã vì lão mà chết. Giá ngày ấy lão cứ để cho mụ vợ giữ thằng bé ở lại, giá lão đừng thương nó …giá như… thì nó đâu có đi sớm như vậy.
  Lão nói, đời lão cực hơn cả con chó hoang  sống chặp vìu ngoài bãi rác.Vướng vá chi vào đời tui cho tủi phận,Bảy à!!!
 
                 *                 *
 
                                                                    *
Ấy là lời lão nói khi gặp chị trong đám ma nhà Tám Nghĩa. Ở thị xã nhỏ như lòng bàn tay, chưa đi đã gặp con đường xuất phát, không ai không biết đến nhà hàng Tám Nghĩa. Cơm bình dân, rẻ tiền và ngon miệng…Bàn ghế, đồ ăn, đồ uống sạch như lau như li. Khách ăn uống mùa nào cũng đông nghịt, ông chủ Tám Nghĩa ngồi xe lăn chỉ huy đám con cháu lên thực đơn, đặt hàng, chế biến món ăn và ghi sổ sách.
Bảy được thuê về làm ôsin khi Tám Nghĩa bị liệt hẵn hai chân sau một trận ốm thập tử nhất sinh. Trong kiếp người làm thuê của mình, Bảy đã làm đủ việc, đi đủ nơi . Nhà Tám Nghĩa là nơi chị ở lại lâu nhất. Hàng ngày, ngoài việc lau chùi, dọn dẹp, chị  có nhiệm vụ chăm sóc cho Tám Nghĩa. Cơm nước của ông chủ, chị phải đưa vào  tận phòng. Sáng,  khi có chuông báo cửa, chị vào phòng dọn dẹp và giúp Tám Nghĩa vệ sinh cá nhân. Tám Nghĩa kẹt xỉ, trả công cho chị bao giờ cũng thấp hơn bên ngoài. Dù vậy chị vẫn ở lại vì đây là nơi có thể giúp chị tìm ra gốc gác của mình.
 Đám ma Tám Nghĩa làm lớn. Trống chiêng, kèn nhị eo óc kéo chùng không gian buồn thảm , não ruột của sinh li, tử biệt. Chị Bảy bận tối mắt, lũ con cháu réo gọi chị khi cần bất cứ thứ gì. Chị như một con chó trung thành và thạo việc, cung cúc từ sáng cho đến tối mịt. Khi đói lã, không còn sức để lấy cho cô Cả cốc nước, cậu Hai điếu ba số, cô Tư thỏi son môi chị Bảy mới nhớ ra là từ sáng đến tối chị chưa ăn  gì. Chị Bảy vào bếp, vục đầy bát xôi còn thừa trong mâm, cho phép mình ngồi mé một góc giữa bộn bề tang lễ, vừa ăn vừa đưa mắt nhìn đám kèn trống  đang nỉ non phía dưới quan tài.
Lão nhìn chị, đôi mày rậm rì nhướng lên, đuôi mắt nheo khẽ nháy . Chị cúi xuống bát xôi, đôi đũa tre gẩy gẩy. Phía bên kia, lão đi một “đường” nhị buồn nẫu ruột. Đôi bàn tay thuần thục tạo ra âm thanh chao chát. Chị Bảy nghe lạnh ướt sống lưng, đôi mắt ngước lên, quả quyết nhìn thằng người kéo nhị. Âm thanh không thay đổi cung bực, riết róng trong không gian nhuốm màu tử khí.
Chị nghĩ, làm nghề như lão thật kì. Quanh năm suốt tháng  tiễn đưa người chết, đời u ám như rong rều ngoài bãi đá. Làm nghề kèn trống  thức thâu đêm, phải tấu lên những bản nhạc buồn để đưa người đã khuất lên đường. Đã hai đêm, lão không chợp mắt. Khuôn mặt đen xạm, tứ chi dài ngoẵng, râu ria lởm chởm và một mái tóc bết bát, bẩn thỉu. Lão và đám bạn tứ cố vô thân quây lều sống chằng đụp ngoài bãi đá húp xì xụp bát cháo gà  loãng mà gia chủ nấu để bồi dưỡng cho những kẻ canh quan tài, tấu nhạc tiễn đưa người chết. Chị Bảy ngồi nhìn họ ăn, chắt vào bát lão miếng tiết gà to tổ bố. Lão thèn thẹn nhìn chị như biết ơn, rồi cúi xuống xì xụp…
             Sau đám ma ở nhà Tám Nghĩa, lão và chị Bảy qua lại thân thiết. Đám con nhà Tám Nghĩa không chịu được chuyện tình tang “ phải gió” của hai kẻ già đã đuổi chị đi. Chị Bảy được thuê trông trẻ nhỏ, chị đi hết nhà này sang nhà khác, nhiều thì hai năm, ít thì dăm bảy tháng.
     Lão kiếm chiếc xe đạp cũ, chạy trên đường kêu rào rào như máy tuốt. Khi không có việc, lão lại đạp xe loanh quanh rồi đến chỗ chị , nói vài câu chuyện vu vơ rồi đi. Chị thường dúi vào tay lão khi thì gói thuốc lào, khi hộp dầu gió, nhiều khi là dăm chục ngàn. Chị Bảy mừng rơn vì có được người thân . “ Anh Năm đừng nghĩ ngợi nhiều. Tui coi anh như anh trai tui. Thỉnh thoảng anh lại tui, cho tui đỡ tủi”. Chị Bảy nghèn nghẹn. Từ bữa đó, chị khoe với mọi người là đã tìm được gia đình . Năm kèn trống đám ma là anh trai của Bảy. Năm kèn trống đám ma là người thân mà Bảy thất lạc từ ngày chào đời. Kiếp ở đợ của Bảy thật không uổng phí. Bảy đã có được người thân, một người thân mà cả đời Bảy khao khát để được chìu chuộng, lo lắng.
              Cả dãy nhà trọ nơi Bảy trông trẻ tíu tụm nhau lại kể về chuyện của Bảy. Khi chiếc xe cà tàng của lão xuất hiện đầu lối ngõ, bọn trẻ nít đã réo ầm lên “ Cái tĩnh là cái tính tang/ đi xe cà tàng…”. Bảy buồn, lẳng lặng bế đứa trẻ lui cui đầu chái bếp, nước mắt chảy vòng quanh ướt bầm má. Rồi chị thơ thẩn đứng nhìn theo chiếc xe đạp đã khuất không còn bóng. Chiếc áo bông chiều nay anh Năm kèn trống mặc hình như chỉ còn hai chiếc cúc. Giá mà chị có thể khâu lại để anh đỡ cực.
Từ bữa ấy, lão không tìm đến chổ Bảy như mọi lần. Lão biết, đời lão cực hơn cả con chó hoang sống chặp vìu ngoài bãi rác, nhưng lão sống trung thực và ngay thẳng. Lão sợ vì mình mà Bảy mang tiếng, lão sợ mồm miệng của kẻ đủ đầy và nhàn rỗi. “Thôi Bảy ạ, cực một mình tui chịu, Bảy vướng vá vào tui chi cho tủi phận. Nhà tui dưới dốc Bọ trai, dưới là bãi đá với  đám rều cong vêu bên dòng sông ngầu nước. Lúc nào có việc, Bảy đến đó tìm tui nhé ! Đời tui cực lắm Bảy ơi, cực hơn cả con chó hoang sống chặp vìu ngoài bãi rác. Vướng víu vào tui chi cho tủi phận, Bảy à !!!”
 
*             *
     *
Bảy nói, cho Bảy thêm mấy phong bao lì xì để tết nay Bảy chúc phúc cho anh Năm Bảy và bạn bè của anh ấy. Bảy nói, Bảy cần mấy ký nếp để gói bánh chưng và ít dưa hành để cất mâm cúng thầy mẹ… Bảy nói…
    Chị đi giữa phiên chợ tết với chiếc áo len xanh cổ tim chưa bao giờ mặc. Mái tóc túm ngược bằng một tấm voan mỏng, trông chị trẻ trung và đầy cả quyết. Chị xưng Bảy với mọi người, chị nhắc đến anh Năm kèn đám ma một cách dịu dàng. “Anh ấy là anh trai tui, phước phận mấy đời mới giúp tui tìm lại được anh ấy…”. Chị vừa khoe với mọi người, kể cả người mới gặp lần đầu, vừa như phân trần. “ Gớm, cô Bảy năm nay sắm tết to nhỉ, cô Bảy nhớ ghé nhà tui xem mặt thằng bé nhé. Bây giờ nó phổng phao phải biết”. Chị Bảy cười, với ai chị cũng hứa nhất định sẽ ghé vào để thơm vào má thằng cu, cù vào bụng nó để hít hà không khí của một gia đình.
 Chị Bảy sắm tết. Đầy đủ hương hoa, bánh trái, rượu thịt…Chị còn phá lệ mua cho anh Năm một chiếc áo mới để diện . Đây là lần đầu tiên trong đời Bảy sắm tết. Những năm trước, nếu chủ  về quê thì Bảy ở lại trông nhà, ăn uống qua quýt rồi lấy chổi lau chùi khắp các phòng. Nếu chủ ở lại thì Bảy cung cúc phận sự của một ôsin. Có người thương, qua tết thưởng cho Bảy vài ba trăm, còn không thì đó là bổn phận của Bảy.
    Con đường mòn dưới dốc Bọ Trai tím ngàn ngạt một màu hoa cỏ may. Trời lây phây. Xa xa, dòng sông cuộn mình, thở ì ạch trong màu nước ngầu đục, lạnh giá. Những ngày giáp tết, bãi đá buồn rũ, eo óc như không còn sự sống. Phía bên kia, dưới dốc Bọ trai là căn lều quây tạm bằng đủ thứ chắp vá nhặt được trên bãi sông đỏ óng  phù sa. Những kẻ làm nghề cửu vạn đã về quê để ăn tết, chỉ còn lão và mấy anh em làm nghề kèn trống tứ cố vô thân nằm lại trong căn lều, đói khát và buồn tủi chờ mấy ngày tết qua đi.
Bảy đến. Con đò bất chợt buông neo. Dòng sông dịu dàng uốn chảy. Đám mây rưng rưng nước bất chợt dạt về phía cuối chân trời. Ánh sáng tươi vui, rộn rã đổ dọc triền sông.
Chị Bảy long lanh ánh mắt:
- Tết này nhờ có anh Năm và các chú mà Bảy có được một mái nhà. Các chú mỗi người một tay, ta sửa sang để đón tết thật vui.
Chị Bảy nói cười rổn rảng, mặt ửng đỏ như tô son. Chị lấy ra nào kéo để bọn đàn ông cắt gọt lại mái đầu bờm xờm, mua xà bông để tắm táp kì cọ đón năm mới, mua hương hoa để đặt lên bàn thờ, mua vài tờ tranh để treo lên chổ thủng trong lều…Chị đi một vòng, cơ man nào là rều, cong vêu dưới bãi đá. Chị nhóm lửa, lửa reo vui trong bếp, nổ lép bép những âm thanh nghe thật vui tai . Anh Năm và đám kèn trống  tắm táp, kì cọ trông ra dáng người, xúm xít vui vẻ. Lão nói:
- Nhờ em Bảy mà anh em ta có tết, thật vui không có gì bằng. Tôi quyết định sang năm, chúng ta phải làm ăn đàng hoàng . Ta phải sửa sang lại nhà, lợp thêm chái bếp, phải tự nấu nướng, không ăn uống vầy và . Các chú nghĩ sao?
 Bọn họ nhìn Bảy, vỗ tay ràn rạt.
- Nhưng anh Năm cũng phải hứa với tụi tui là không để cho chị Bảy buồn. Anh    Năm phải…
Lão cúi mặt, vành tai đỏ rần. Lão nói lí nhí “ Bậy bạ, cô Bảy là em gái tui…”. Bảy nghe hết chuyện bọn họ nói,di di thanh củi xuống nền nhà, nói đỡ :
- Sang năm, các anh làm ăn cho đàng hoàng, tết tới, tui lại mua bánh trái góp vui, 
anh Năm hé !
     Bảy tránh ánh nhìn đằm đượm của anh Năm, chui ra khỏi lều, xách rổ đi dọc bãi đá. Những hòn đá được chuốt trơn láng, mịn mượt nằm xếp chồng lên nhau. Bảy cảm nhận được những linh hồn đá đang đùa nghịch trên dải đất phù sa phía bên kia. Bảy nói, Bảy đã có gia đình. Linh hồn đá hôn lên má Bảy, rồi theo con gió lướt theo triền sông …
Bảy nhặt đầy rổ những thanh củi theo nước dạt vào. Chị xếp chúng gọn ghẽ vào phía sau căn lều, tạo cho căn lều tạm bợ sự vững chãi và kín đáo. Đám đàn ông tròn mắt nhìn Bảy, họ thực sự chộn rộn khi nhìn sự sống mới đang theo bàn tay Bảy về với căn lều quây tạm của anh em họ dưới dốc Bọ Trai. Lão rưng rưng khoé mắt, nén nhang thắp trên mộ thằng bé bập bùng cháy. Lão lùi ra xa ngắm nghía làn khói len lên từ mái lều, ngắm dáng đi tất bật của Bảy giữa bộn bề công việc.Bảy nói, anh Năm à, phía dưới  bãi đá còn đất để trồng bầu bí, trồng dưa …có thể trồng ít giành mạ để lấy lúa nuôi dăm con gà đẻ. Mùa nước lên thì đóng bè thả dây muống, sau này khấm khá hơn thì thả lồng nuôi cá, thả bầy vịt ăn hến, ăn giắt dọc bờ sông,  anh Năm à !
Chiều ba mươi tết bất chợt trời quang sáng. Những tia sáng dịu dàng của mùa xuân đổ tràn trên bãi đá, nghe lao xao trong gió những âm thanh ngọt ngào của hạnh phúc giản đơn. Bảy nép dọn nhà cửa, anh Năm che tạm chổ ngủ cho Bảy, ưu tiên Bảy tấm chăn bông duy nhất. Bảy quýet đi quýet lại xung quanh nhà, sắp đá thành một chiếc bàn ăn, bày lên đó một chai rượu trắng và đĩa lạc rang. Nồi bánh chưng sôi ùng ục trong tiếng lửa reo tí tách. Mấy anh em ngồi quây quần bên bếp lửa. Mắt ai cũng cay xè. Thỉnh thoảng, có một người đứng dậy cầm rổ đi nhặt củi dưới bãi đá. Ấy là lúc đôi mắt cay không chịu nỗi, phải vục nước dưới sông phả lên mặt, để rồi  mặc dòng nước mắt không kìm nén tuôn rơi!
    
      *
*           *
Bảy nói, đời Bảy còn cực hơn cả anh Năm. Bảy không muốn nhìn thấy anh Năm buồn . Sang năm, thỉnh thoảng Bảy lại đến trồng dây bầu, dây bí, ấp ìu ổ gà con, quang gọn nhà cửa giúp anh Năm.
Bảy đón xới đầy ụ những bát cơm bốc khói trong ánh mắt đằm đượm của  Năm kèn trống. Nụ cười Bảy long lanh, Bảy nói, nói cho một mình Bảy, rằng con Bảy trông trẻ, con Bảy ở đợ đã có gia đình.
Bất chợt, gò má Bảy nóng ran. Ngoài kia, dòng sông dịu dàng dâng con nước, bầu trời tách vỏ, dốc Bọ Trai  tím ngàn ngạt một triền cỏ may!!!
 
 
VÉ XEM XIẾC
                                                                                 ( Truyện ngắn )
 
Chị ngập ngừng giữa vạch ngăn đường rẽ và cổng  trường mầm non, nơi thằng con trai năm tuổi, rắn rỏi và khôi ngô được gửi học. Chưa bao giờ chị  bước qua vạch ngăn đó khi đưa và đón con.
Mỗi buổi sáng, người đàn bà đội lên đầu thúng bánh mì vừa ra lò, thằng con loẵn quẵn chạy bám chân mẹ. Hai mẹ con đi hết những ngóc ngách của thị trấn là vừa tầm trường mầm non mở cửa. Thằng bé líu lít chào mẹ rồi tự tin vào lớp. Chị đứng nhìn theo bóng con cho đến khi cái đầu tròn húi nhẵn của nó khuất sau dàn hoa tygôn. Nghĩa là con chị đã bước lên chín bậc cầu thang , cất gọn ghẽ chiếc túi có hình con cá sấu vào ngăn riêng của mình, vòng tay trước ngực ngoan ngoãn “ chào các cô cháu đến lớp”. Người đàn bà yên tâm rảo bước đi về phía chợ, giọng khao đục rao buồn “ bánh mì nóng.. ơ. Ai bánh mì nóng giòn nào…”. Chị đi hết cả ngày, đôi chân mỏi nhừ như không lê bước nổi. Khi gần tầm đón con, chị mua thức ăn, rất ít thức ăn cho buổi tối. Thường, chị nhằm người bán trứng nhỡ tay làm vỡ hay vài lát thịt cắt thừa thẹo, ít nước hến ế hàng để làm bữa cơm chiều cho hai mẹ con. Thằng  bé lúc nào ăn cũng ngon miệng, nó hít hà thưc ăn mẹ nó mua về, miệng nhồm nhoàm , nói như ông cụ non “ chắc là đắt lắm đấy mẹ nhỉ? Sau này con lớn, con sẽ đi làm để đưa mẹ đi ăn nhà hàng , nhé, mẹ nhé !”. Chị rơm rớm nước mắt. Mỗi khi thời tiết xấu, chợ ế ẩm, không được nổi mấy ngàn tiền lời, chị cũng không đành lòng về không. Thằng bé có da có thịt, không thua kém bạn bè cùng trang lứa. Chị nhìn con hãnh diện. Khổ bao nhiêu chị cũng chịu được, miễn là con chị được vui.
Người đàn bà đội lên đầu chiếc thúng lùng bùng tấm chăn bông cũ dùng để giữ ấm cho những ổ bánh mì vừa ra lò. Ngày nào bánh còn thừa nhiều, chị đón con rồi vòng về lò bánh để gửi lò nướng lại. Nếu ít, tối ấy hai mẹ con sẽ ăn bánh thay cơm. Thằng bé ăn bánh mì không chán, lúc nào cũng liếm mép thòm thèm khi ăn đến mẩu bánh cuối cùng. Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày con trai chị làm lễ tổng kết để ra trường. Thằng bé vừa tròn sáu tuổi, sang năm học mới, nó đã là thằng nhóc lớp một, biết đọc, biết viết, biết cộng trừ nhân chia. Vì là ngày đặc biệt của con, nên chị muốn phá lệ, bước qua vạch ngăn của trường mầm non để vào cửa lớp, âu yếm đón con, xoa đầu và dắt tay nó đàng hoàng bước xuống chín bậc tam cấp để  hoà vào  dòng phụ huynh hân hoan rạng ngời  dự lễ tổng kết tổ chức ngoài trời. Chị đã sắp xếp việc hệ trọng này trong cả một tháng ròng. Đầu óc chị cử luẩn quẩn với hình ảnh chị xuất hiện trước rất nhiều bạn bè của con , luẩn quẩn với cái mủng to quá cỡ, chiếc khăn bông chùm mặt và chiếc nón xỉn màu. Chưa bao giờ chị bước qua vạch ngăn đó ngoại trừ lần đầu nhập học của con. Chị xin cô giáo chủ nhiệm cho thằng bé tự ra về mà không có mình đón ở cửa. Chị rơm rớm nước mắt hứa với cô giáo là không bao giờ tới trễ, cứ đúng giờ tan tầm là chị đã có mặt trước cổng để chờ con.
Bây giờ, chị lại ngập ngừng…Chị nghe tim mình nẩy lên từng nhịp. Chị quả quyết bước qua vạch ngăn khi vén gọn chiếc khăn chùm mặt cất vào mủng, vuốt lại chiếc áo đẹp nhất mà chị đã cất giành cho ngày trọng đại này. Chị không thể lừng khừng mãi trước cánh cổng đã được mở ra hết cỡ…Dòng xe từ các ngã dồn về, phút chốc cổng trường đông chật như nêm. Chị nghe tiếng làu bàu của những người đi xe phân khối lớn “Đi ra nơi khác mà bán, đời thủa nhà ai lại chen vô đây, bà già…!”. Mặt chị nóng phừng phừng. Câu nói ấy đã giúp chị bước qua vạch ngăn. Chị nhanh chóng dấu đồ nghề của mình dưới một chậu cây um tùm lá.
   Chị đứng vào chổ khuất, đôi má xanh bủng ửng hồng, đôi mắt rơm rớm nước. Thằng nhóc con trai chị quả thật khôi ngô, nó nhỉnh hơn đám bạn một chút, da dẻ hồng hào, tóc đen nhánh. Còn đôi mắt, đôi mắt nó thật có hồn. Những sáng mùa đông lãnh lẽo, mưa phùn nhớt nhát trên những tán lá hao gầy, vàng vọt, thằng bé loẵn quẵn theo chị, thỉnh thoảng nó chạy lên trước, ngước đôi mắt trong veo nhìn chiếc mủng  trên đầu chị. Chị như thấy cả mùa xuân trong cái nhìn thơ trẻ, chị áp đôi bàn tay của mình vào bầu má lạnh như kem của thằng bé, khẽ  nói:
- Cố chịu nghen con!
Thằng bé gặc gặc đầu, bắt chước mấy bác đi xe ôm gần nhà, trả lời rắn rỏi:
- Mẹ ơi, nhằm nhò gì. Mai mốt con còn đội cả thúng bánh đầy cho mẹ nữa cơ !
Chị nghẹn ngào:
- Mẹ không khiến. Con phải học giỏi để lái xe đưa mẹ đi ăn nhà hàng, đúng không nào?
Thằng bé loẵn quẵn chạy lên trước, chiếc xắc nhỏ sau lưng có hình con cá sấu thật ngộ nghĩnh.
Con trai chị  ngồi ở góc lớp, hai tay ngay ngắn đặt lên bàn. Thỉnh thoảng, nó nhíu hai đường mày, hình như có điều gì khiến thằng bé phải bận tâm. Ngày thường, nó sẽ rời lớp học khi phụ huynh đến đón con đã vãn. Chị sẽ tranh thủ rao bán những chiếc bánh mì cuối ngày. Khi nhìn thấy thằng bé, chị sẽ lùi xa vạch ngăn, đến chổ quy định của hai mẹ con để chờ nó.
 Hình như thằng bé đang tính toán nên ra thẳng chổ quy định hay ở lại một chút xíu để dự lễ tổng kết. Nó đăm chiêu nhìn ra xa, nơi có giàn tygon với những cánh hoa mỏng, bé xíu. Thằng bé chưa từng làm sai lời mẹ, nó muốn mỗi đêm được rúc vào nách, hít hà mùi thơm ấm nồng, kể cho mẹ nghe những điều nó làm được trong ngày. Nhưng, hôm nay là một ngày đặc biệt, một ngày thằng bé con như nó được hưởng nhiều niềm vui bất ngờ. Nó bí mật xoè bàn tay ra, nó ngắm nhìn không chán những hình vẽ in màu ngộ nghĩnh trên tờ giấy vuuông vắn . Tiếng nhạc rộn ràng và món quà trên tay cô giáo càng làm cho thằng bé phấn chấn . Khi thấy con nhớm người, có vẽ quả quyết đứng lên, chị hấp tấp sửa lại áo xống, đứng trước cô giáo, khẽ chào :
- Thưa cô!
Thằng bé chôn chân, đứng như phổng. Khuôn mặt non nớt của nó từ trạng thái ngạc nhiên đến vui mừng cực độ. Thằng bé nhào ra ôm lấy chân chị…Nó hãnh diện giơ hai ngón tay( thực chất là nó bắt chước mấy anh chị lớp trên) vẫy vẫy đám bạn chưa có bố mẹ đến đón. Cô giáo xoa đầu nó, lời cô làm nó sướng rơn:
- Cu Bi là ngoan nhất đấy!
Ra đến cửa, thằng bé vỗ vỗ vào túi xắc có hình chú cá sấu ngộ nghĩnh, líu lít:
- Mẹ ơi, con cất quà rồi, cô giáo cho con nhiều quà lắm. Mà sao mẹ lại đón con, hết bánh nhanh thế hả mẹ?
Người đàn bà không trả lời, đôi mắt dấu sau vành nón nhoen ướt. “Mình không được để thằng bé nhìn thấy, mình không thể khóc !”. Chị tự nhủ. Những lúc như thế này, chị lại thấy mình mềm yếu, và đứa con trai bé bỏng kia là người đàn ông vững chãi cho chị dựa dẫm. Chị xiết chặt tay thằng bé.  Lòng chị rộn ràng bước xuống chín bậc tam cấp, thằng bé vẫn ngập tràn niềm vui sướng. Khi đến chổ khuất, nó lôi ra từ ngăn nhỏ của chiếc xắc cá sấu một tờ giấy nhỏ. Nó thận trọng vuốt cho thật thẳng thớm, ghé tai mẹ thì thào:
- Mẹ ơi, con được tặng vé đi xem xiếc thú. Đây này, mẹ  xem này .
Người đàn bà cầm tấm vé màu nâu nhạt, đôi bàn tay với những móng tay cáu xỉn, quắp queo run run. Trên tấm vé, chi chít những hình ảnh về đêm biểu diễn với những con vật ngộ nghĩnh. Nỗi bật trên tông màu nâu nhạt là hai chữ “ Vé xem” màu đỏ, chiếm gần nửa chiếc vé, còn chữ “ xiếc” được đề bé tẹo ở một góc. Người đàn bà nghiêm khắc nhìn con:
- Con lấy tấm vé này đâu ra, có thật là con được đoàn xiếc tặng không?
Thằng bé nhìn mẹ, rơm rớm nước mắt. Nó dựa vai vào tường, khuôn mặt đỏ ửng:
- Mấy chú ở đoàn xiếc tặng cả lớp con, các chú bảo là quà ngày mồng một tháng sáu. Các chú còn bảo phải ngoan và nghe lời thì người lớn mới có quà tặng các cháu. Lớp con bạn nào cũng có, cả bạn Ngọc Minh hay quậy phá và lười ăn nhất lớp cũng có quà, mẹ ạ. Thế thì vẫn chưa công bằng mẹ nhỉ, phải phạt để bạn ấy ngoan hơn chứ, mẹ nhỉ?
Thằng bé nhảy chân sáo bên mẹ, niềm vui sướng trẻ thơ bừng sáng trên khuôn mặt non nớt. Bất chợt nó dừng lại, nói như ông cụ non:
- Nhưng mà ban Ngọc Minh cũng tội lắm. Cô giáo nói mẹ bạn ấy không tìm được đường về, đã bay lên trời rồi. Bạn ấy có mẹ mới nhưng trông kì lắm cơ!
- Thật thế à con !
- Đúng thế mẹ ạ. Mẹ mới bạn Ngọc Minh như mấy cô người mẫu, tóc thẳng và vàng rực chứ không phải như tóc của mẹ đâu. Nhưng con thấy như mẹ vẫn đẹp hơn, mẹ là nhất rồi!
Mấy câu cuối, thằng bé ghé vào tai mẹ. Chị nghe rõ hơi ấm dịu dàng từ làn môi thơm nồng của nó.
 Người đàn bà đưa tay áo lên mắt, nheo nheo để khuôn mặt không bị nhoen ướt. Thằng bé cầm trên tay chiếc vé xem xiếc, nhanh chóng tìm một chổ ngồi với hai chiếc ghế bé tẹo rồi giơ tay vẩy chị “ Mẹ ơi, con đây này…Nhanh lên mẹ”
Người đàn bà nhớm người trên chiếc ghế nhỏ mà ngày thường con trai chị vẫn ngồi học. Chị nhìn thằng bé nghiêm nghị theo dõi chương trình buổi lễ, đôi tay bé tẹo thi thoảng lại giơ ra, ngắm nhìn không chán chiếc vé xem xiếc. Thường, những đoàn xiếc nghiệp dư rong ruổi, năm dăm lần ghé về sân vận động thị trấn để biểu diễn. Thằng bé cùng đám trẻ chạy theo xe quảng cáo, ngắm nhìn những con thú đứng ngồi lổn nhổn trên thùng xe. Gánh xiếc nghèo không đủ điều kiện để dựng sân khấu nên dùng vải bạt quây tạm một góc sân vận động Thị Trấn để biểu diễn. Nhưng, mỗi lần xe của đoàn xiếc về, trẻ con vui hơn tết. Chúng hè nhau leo lên các chạng ba, chạng tư của cây trứng cá, ngồi chờ xe của các chú đi qua. Những con vật thiếu ăn, rong ruổi theo đoàn nên gầy trơ xương. Thằng bé con chị vui sướng ra mặt mỗi lần đoàn xiếc về. Nó cố gắng đón trước các điểm xe đi qua để được nhìn thấy chú khỉ nghịch ngợm mang váy ngồi trên lưng  bác voi, tay sờ nắn đôi tai to bè .
Nhưng, đến bữa cơm chiều, cu cậu chống đũa, mắt nhìn ra xa tít, nói như ông cụ non “Đoàn xiếc này chắc còn non nghề, mẹ nhỉ. Con nhìn thấy rồi, voi gì mà bé tí như con bò nhà cụ Khắp. Lạc đà thì gầy ơi là gầy, lại bẩn kinh khủng …Ai mà thèm đi xem, mẹ nhỉ !”. Câu cuối cùng, thằng bé nói rất khẽ, phải thính lắm mới nghe rõ được. Chị chép miệng quay đi, biết rằng thằng bé đang dối chị. Chị đau lòng khi nó hiểu hết những gì mà chị cố tình dấu nó. Chị lại tự oán trách mình, nếu chị không là mẹ thằng bé thì có khi nó đã được một gia đình khá giả nhận vê nuôi. Ngày tháng ác liệt của chiến tranh, chị đã bỏ dở dang lớp trung cấp nông lâm, xung phong vào nông trường sản xuất phục vụ cho tiền tuyến. Cô gái xuân sắc ngày nào giờ bủng xanh, vết chân chim đầy khoé mắt rạn. Hoà bình, chị và bao cô gái nông trường không có chổ để về. Khi nông trường giải thể, chị và đồng đội của mình được nhận một khoản tiền trợ cấp ít ỏi. Những trận sốt rét vắt kiệt sức lực của chị, chị  bán bánh mì rong để kiếm sống qua ngày. Với chị, thằng bé là báu vật!
   Bây giờ, thằng bé đang có trong tay một tấm vé xem xiếc, mà là tấm vé mẹ nó không mất tiền, người ta đã tặng nó vì nó là bé khoẻ, bé ngoan, sang năm được vào lớp một để học chữ. Với nó, thằng bé sáu tuổi nhưng loẵn quẵn theo mẹ đi khắp các ngõ ngách của thị trấn từ khi biết đi…thằng bé má lạnh như kem, môi tím tái mỗi buổi sáng mưa phùn nhớt nhát, nhưng miệng vẫn bi bô, soi đèn cho mẹ tránh những vũng bùn lầy lội…Với nó, đó là món quà vĩ đại nhất, đáng giá nhất, là niềm vui không thể diễn tả bằng lời. Những lần đoàn xiếc đến rồi đi, nó lại cầu trời mong đoàn xiếc trở lại. Thằng bé ao ước một ngày, nó được cùng mẹ bước vào sân vận động của thị trấn để xem đoàn xiếc biểu diễn. Những đứa bạn cạnh nhà nó cứ kể mãi tưởng chừng không khi nào hết về những trò biểu diễn mà chúng vô cùng thích thú. Chuyện về cô Khỉ được mặc một chiếc váy hoa màu cánh sen, ghánh trên vai hai quảy nước đi trên chiếc cầu ghập ghềnh; chuyện chú chó đốm sọc biết làm phép cộng trừ nhân chia; chuyện chú Voi hiền lành lấy vòi nhấc bổng một cậu bé đưa lên lưng; Vui nhất là chuyện hai thằng bé con tầm tuổi nó được chọn lên sân khấu để biểu diễn cùng các chú. Chúng được bịt mắt bằng một tẩm dải màu đỏ. Mặc dù  các chú đã ghé tai nói nhỏ, nhưng cả hai đều tè ra quần khi chú trăn bằng nắm chân vòng qua cổ. Những lần thằng Bo, cái Nhím tranh nhau kể, thằng bé chép chép miệng, nó lảng ra xa như là không thích, không thèm để ý …Nhưng, nó nghe rõ mồn một từng câu, từng chữ. Yết hầu bé tẹo của nó ngắc ngắc…Nó là thằng bé ngoan. Chao ơi, sao thằng bé lại ngoan nhiều đến thế …Giá như nó cứ khóc toáng lên,  nằng nặc đòi đi để chị đét vào mông nó vài cái! Giá là như thế chắc chị sẽ đỡ đau lòng hơn.
Người đàn bà dắt tay đứa trẻ, chiếc thúng  như được gắn chặt trên đầu. Hai mẹ con đi ra phía bờ đê, vòng qua dốc Bàu Đá để đi xuống làng vạn chài, bán nốt những chiếc bánh còn ế. Dốc Bàu đá vắng heo. Những chiếc thuyền với  dăm bảy chiếc áo nhàu nhĩ phơi bầy bà trên nóc thuyền không còn bóng dáng. Hình như ngày nước lên, họ cho thuyền ngược mạn để đãi hến. Hai mẹ con quay ngược lên cầu Hát, đó là con đường vòng qua thị trấn để về nhà nhanh nhất.
Thằng bé  loẵn quẵn chạy trước. Nó líu lít không biết bao nhiêu là chuyện. Nhưng, nói đi rồi nói lại, nó vẫn không nói những chuyện ngoài chiếc vé xem xiếc tối nay. Thằng bé giơ chiếc vé ngang mặt, nó hít hà như hít hà những mẩu bánh mì, những lát thịt heo luộc mỗi tối:
- Mẹ ơi, chiếc vé này thơm đáo để mẹ à. Mẹ ngửi mà xem này!
Thằng bé dí dí chiếc vé sát mắt của người đàn bà. Người đàn bà kêu khẽ:
- Ồ, đúng là thơm thật. Con trai của mẹ cũng thật là thơm.
Thằng bé khoái chí cười khach khách. Như chợt nghĩ ra điều gì quan trọng, nó dừng lại tí xíu rồi lại vội vã chạy lên trước.Nó nói:
- Mẹ ơi, ghánh xiếc này “ngon” phải biết, không phải như những ghánh xiếc trước đâu, nhỉ, mẹ nhỉ! Có “ngon”, người ta mới cho phép biểu diễn mừng ngày quốc tế thiếu nhi, đúng không mẹ ?
Người đàn bà bật cười trước cách dùng từ của con. Chị hôn khẽ lên má nó và gật đầu liên hồi. Thằng bé vẫn không dứt dòng liên tưởng:
- Thế thì con sướng ăn đứt thằng Bo, cái Nhím rồi. Nhất định con phải kể thật hay, thật hoành tráng cho chúng biết.
Thằng bé nheo nheo con mắt nhìn ông mặt trời đội núi nhô lên phía chân trời xa tít. Mảng trời xanh non bừng sắc hồng sen làm cho buổi chiều đầu hạ thơ thới, loang tan hạnh phúc, thứ hạnh phúc giản đơn cuả những người nghèo như mẹ con người đàn bà bán bánh mì rong. Thằng bé ngắt một cành hoa cỏ may, bập bập vào má:
- Mẹ ơi, con còn bé, vào cổng xem xiếc không cần phải vé đâu mẹ ạ ! Là người lớn nói thế.  Mỗi lần gánh xiếc về, ba thằng Bo đều  bảo con xin phép mẹ, nhiều lần rồi cơ! Ba thằng Bo bảo sẽ chở con và  nó bằng xe gắn máy. Nhưng con không muốn thế, con muốn mẹ cũng được xem nữa cơ. Con biết là mẹ cũng thích. Bữa nay thì sướng rồi mẹ nhỉ, mẹ con mình đã có vé để đi xem xiếc. Chiếc vé này- vừa nói nó vừa giơ lên cao- con sẽ giữ hộ cho mẹ. Là tấm vé xem xiếc của mẹ tôi này…Tấm vé…này…
Thằng bé đặt tay lên miệng giả làm loa. Người đàn bà cười, nụ cười rạng ngời làm khuôn mặt chị bừng lên, tươi roi rói !
                                              
                                                                   *        
                                                               *     *
Người đàn bà phá lệ, lần thứ hai chị phá lệ trong một ngày mà con trai chị vui nhất. Bữa cơm chiều  dọn ra trên cái mươn đã bóng nước, có hai món nhạt và mặn. Thằng bé sà vào bàn, đôi mắt nó long lanh:
- Sao nhiều thức ăn thế mẹ. Ôi! món đậu rán này là con thích nhất đấy. Lại còn  thịt kho nữa! Mẹ cho con ăn hết à mẹ?
- Ừ, bữa này mẹ đãi con trai mẹ. Thằng nhóc này khá thật, thế là đã học xong mầm non rồi. Thôi ăn đi, mẹ con mình còn phải soạn sửa để đi xem xiếc thú nữa cơ mà!
Người đàn bà nói lớn, âm hưởng hào sảng và ngọt ngào như nhành hoa sầu đông tím biếc trên nền trời của một ngày tháng ba nồng nã. Chị xoa mãi đôi bàn tay gầy lên mái đầu tròn trĩnh, vuốt cái đuôi tóc nhỏ xíu hai bên má của thằng bé.
  Hai mẹ con người đàn bà đến sân vận động khi cửa vào đã đông ngẹt người. Thằng bé nhảy chân sáo bên mẹ, thỉnh thoảng nó vượt lên trước, tay giơ cao tấm vé xem xiếc, miệng líu lo:
- Mẹ thấy chưa,  đoàn xiếc này là “ có nghề” lắm nhá ! Người đi xem đông ơi là đông…Không biết bọn thằng Bo, cái Nhím có được đi xem không mẹ nhỉ?
Thằng bé bổng nhỏ giọng, cầm lấy tay mẹ :
- Vào cổng rồi mẹ nhớ nắm chặt tay con, mẹ nhé! Con sợ mẹ con mình lạc nhau. Cô giáo bảo lạc mẹ là tội nhất…
Người đàn bà nhìn con rưng rưng. Ghánh xiếc về quả là ngày hội lớn của bọn trẻ. Ở đấy, người ta bán vô số đồ chơi và quà ăn vặt của trẻ con. Thằng bé kín đáo nhìn những hình thù ngộ nghĩnh trên những quả bóng bay được bơm tròn căng. Nó lè lưỡi liếm môi khi đi qua hàng bỏng ngô chiên mỡ. Chị vờ như không biết. Chị để mặc dòng nước lặng lẽ chuồi trên khoé mắt.
Dòng người mỗi lúc mỗi đông . Thằng bé dẫn chị vào cửa soát vé. Nó cẩn thận đặt tấm vé xem xiếc thẳng thớm vào tay chị rồi nhanh chân chạy vào trước. Nó đứng ngay sát cổng, đôi bàn tay nhỏ xíu đưa lên vẩy vẩy:
- Mẹ ơi, con ở đây nhé !
Người đàn bà nhón chân, gật gật đầu. Chị nghiêm trang chìa tấm vé xem xiếc mà con trai chị được tặng ở trường mầm non. Anh chàng soát vé bật cười, đem trả tấm vé cho chị:
- Bà khốt ơi, đây là vé của trẻ con, người lớn muốn vào thì phải sang kia mua vé. Không biết bà ở  đâu ra mà “ khốt” thế không biết?
Anh chàng soát vé đẩy chị ra . Người đàn bà nghe sống lưng lạnh toát, mồ hôi nhễ trong lần áo ngực. Ôi! Con trai bé bỏng của chị, chị biết phải làm sao đây? Chị lần dây rút, kín đáo đếm lại số tiền trong đạy. Những đồng vốn ít ỏi của chị đủ để mua một tấm vé vào xem xiếc. Nhưng còn ngày mai, ngày kia…chị không biết phải xoay xở thế nào cho cuộc sống của hai mẹ con chị. Người đàn bà đau đớn nhìn đôi bàn tay nhỏ xíu đang vẩy vẩy của con trai. Chắc nó sốt ruột muốn nhanh lên ngồi ở hàng đầu để nhìn cho rõ…Lấy hết can đảm, người đàn bà tiến gần sát cổng, gọi lớn:
- Bi ơi, mình về thôi con!
Cổ họng chị tắc nghẽn khi nhìn đôi vai buông thỏng, khuôn mặt buồn thiu thắt của thằng bé. Không kìm được, chị ghì lấy nó, đôi dòng nước mắt lặng lẽ rơi trên khuôn mặt đau khổ:
- Mẹ xin lỗi con, thứ lỗi cho mẹ, con nhé !
Thằng bé day mặt về phía chị, chỉ thoáng chốc, một thoáng chốc thôi, khuôn mặt thằng bé đã ở trạng thái bình thường. Nó chạy trước chị một quảng, nó nói lớn để chị không thể nhận ra giọng nói đã méo xệch của mình, rằng, mẹ ơi, đoàn xiếc này cũng còn non nghề, ai mà thèm xem, nhỉ, mẹ nhỉ!
Người đàn bà cùng  thằng con trai sáu tuổi đi về phía con đường có những ánh đèn. Sau lưng hai mẹ con người bán bánh mì rong, những chiếc vé xem xiếc dành cho trẻ con dưới mười tuổi được gió, thơ thới bay trong ráng chiều  vừa lịm…!
                                                                                      Nhân ngày 1/6/2013
                                                                                                            T.P.S
. . . . .
  00:00           
00:00
 
00:00