Trong các bộ SGK Ngữ văn biên soạn theo chương trình 2018, thể loại văn học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tất cả các bài học ở bất cứ bộ SGK nào đều xây dựng trên trục thể loại. Ngoài các thể loại chiếm dung lượng lớn trong chương trình như thơ, truyện, ký, học sinh còn được tiếp xúc với một số tác phẩm sân khấu (gồm sân khấu dân gian như tuồng, và bi kịch, hài kịch của sân khấu hiện đại). Để giúp giáo viên và học sinh có thêm tài liệu tham khảo vể hài kịch, chúng tôi giới thiệu một bài viết về Giấu của – một trích đoạn từ vở hài kịch Quẫn khá nổi tiếng của nhà viết kịch Lộng Chương.
Quẫn của Lộng Chương là một trong số ít vở hài kịch được xem là thành công trong nền kịch hiện đại vốn khá mỏng về thể loại hài kịch của Việt Nam. Ra mắt công chúng từ năm 1960, cho đến nay, với hơn 2000 buổi diễn, vở kịch đã chứng tỏ có sức thu hút không nhỏ đối với công chúng. Giấu của (nhan đề do người biên soạn sách giáo khoa đặt) là một trích đoạn cho thấy rõ cái “quẫn” của các nhân vật – cũng là nội dung quan trọng nhất của chủ đề vở kịch.
Quẫn là tình trạng rối trí đến mức thiếu sáng suốt của con người khi giải quyết một vấn đề nào đó trong cuộc sống, chính điều đó có thể dẫn đến tình huống, hành động bi hoặc hài. Ở đây, tác giả Lộng Chương đã chọn phương án thứ hai: cái quẫn đẩy nhân vật đến những hành động kịch, ngôn ngữ kịch mang đầy tính chất hài hước, buồn cười.
Giấu của nghĩa là cất giấu của cải (ở đây là vàng bạc) vào một nơi kín đáo, không ngờ, để người khác khó có thể biết được. Nhưng tại sao lại phải giấu của? Việc giấu của nhằm mục đích gì? Có gì sai trái, mờ ám trong việc giấu của? Trước khi đi sâu trả lời những câu hỏi đó (cũng là lí giải ý nghĩa của đoạn trích đoạn trong sách giáo khoa), ta hãy tưởng tượng đang trực tiếp xem phần diễn này để thấy được các thủ pháp của nghệ thuật hài kịch được tác giả sử dụng.
Dụng ý nghệ thuật thể hiện trước hết ở khâu tạo nguồn sáng chiếu rọi các đồ vật được bài trí trên sân khấu qua những lời chỉ dẫn khá cụ thể của tác giả. Đó là một luồng sáng chuyển động, nổi bật lên giữa không gian tối mịt, có tác dụng thu hút sự tập trung chú ý của ánh mắt người xem. Luồng sáng đó lần lượt rọi lướt rồi vươn lên chiếu thẳng vào hai tấm ảnh chân dung của ông bà Đại Cát (Đại Cát có nghĩa là hết sức tốt đẹp - cái tên đầy chất hãnh tiến thường thấy ở những người giàu có thời bấy giờ); sự chuyển động của luồng sáng khiến người xem như được theo dõi cái kín kín hở hở buồn cười mà nhân vật kịch thể hiện. Hai bức chân dung tuy là ảnh chụp, nhưng lại mang đầy đủ tính chất của chân dung hí họa - kiểu chân dung cường điệu hóa những nét đặc dị trên khuôn mặt của người được vẽ để gây cười. Ấy là ảnh bà Đại Cát với “cặp mắt trừng trừng nhìn thẳng, miệng loe một nụ cười ngây thộn”; ảnh ông Đại Cát với bộ râu “vuông gọn tựa một đốt ngón tay đính giữa nhân trung, làm cho cái miệng ông ta như rúm lại, giống kiểu người chúm môi thổi sáo”. (Người xem không khỏi nghĩ đến kiểu râu của vua hề Sác-lô lừng danh hài hước). Chân dung bà Đại Lợi (mẹ ông Đại Phát) thì được khắc họa với nhiều nét có tính châm biếm: “đôi má chảy xệ và mắt quằm quặm”. Tóm lại, về nhân tướng học, các bức ảnh dường như ngầm báo tính cách nhỏ nhen, nhạt nhẽo vô duyên đến mức đáng cười của nhân vật.
Tương hợp với không khí trên sân khấu (được gợi lên bởi ánh sáng, đồ vật), các nhân vật luôn để lộ ra cái hài qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Ấy là tiếng cười “hụ hụ” “như ho” đầy đắc ý của ông Đại Cát khi thấy vàng bạc mà mình định cất giấu “không suy suyển một li”. Ấy là sự đối nghịch giữa tình trạng tâm lí (biểu hiện qua hành động) của bà Đại Cát và lối biện bạch để che giấu tình trạng đó (Ơ hay… làm sao mợ lại run cầm cập thế? – Tôi… run đâu! (Hai chân vẫn run). Hoặc là sự buồn cười vì cái bất ngờ kì cục (ông bà quờ quạng trong đêm tối để tìm đèn vô tình sờ vào mặt nhau),… Cách nói năng của các nhân vật cũng mang nhiều yếu tố hài. Đó là kiểu nói tắt, nói lấp lửng dễ gây hiểu nhầm (Hay là treo nó (cậu và tôi) lên buồng ngủ… Sao lại treo mợ và tôi lên buồng ngủ – Là tôi bảo hai cái ảnh ấy chứ!; Chôn mợ và tôi à? Khéo khỉ! Là chôn… cái khoản kia ấy chứ!). Đó là những từ ngữ xuất hiện trong lời thoại dễ khiến người nghe nghĩ đến chuyện thô tục (Thế cậu cho nốt chỗ này vào; Đang mò đây; Đứng yên để người ta mò…). Những từ ngữ, câu cú kiểu đó chắc chắn được diễn viên cố tình thể hiện bằng ngữ điệu nhấn nhá khi diễn xuất, khiến người xem không nhịn được cưởi.
Việc chọn chỗ để giấu vàng của ông bà Đại Cát cũng đầy toan tính. Theo phương châm “hở mà kín, kín mà hở”, sau khi cân nhắc kĩ (không bỏ vào két, vì “bà cụ lục lọi cả ngày”, không chôn xuống đất, sợ con Mỹ Trinh nó biết), ông Đại Cát quyết định giấu vàng sau hai bức ảnh chân dung của mình và của bà vợ. Ông cũng không treo ảnh lên buồng ngủ như bà vợ đề xuất, mà “cứ để ngay trước mắt thiên hạ” và thấy đó là kế sách “cao tay”, bởi theo ông, “họ không công tư hợp doanh ảnh của mình đâu”.
Lớp kịch này cũng “đặc tả” tâm lí “yếu bóng vía” của nhân vật khi thực hiện hành động giấu của, không chỉ để gây cười mà còn ngầm chế giễu. Bà Đại Cát thì vừa làm vừa run mà không dám nhận mình run; ông Đại Cát, để xác minh cái gì gây nên “tiếng lạch cạch bên trong cửa”, đã “rón rén”, “khe khẽ nắm quả đấm, mở ào một cái bất ngờ”, “trù trừ đứng nhìn”, “cương quyết bật đèn bước vào” rồi “giật thót người, nhảy lùi lại”. Hóa ra chỉ là… con chuột. Đàn ông, ngay trong nhà mình mà gan như “thỏ đế”! Sau phút thất thần đó, ông bà Đại Cát, người này đùn đẩy người kia việc canh chừng bên ngoài tránh kẻ khác nhìn thấy để giấu nốt phần còn lại. Ông chợt nảy ra sáng kiến “cho vào ảnh mẹ” và đắc ý nhận thấy “được thêm bà lão làm thần giữ của càng vững”. Cái câu hài hước đầy tính châm biếm đó được thốt ra từ chính miệng ông Đại Cát như tô bồi thêm tính “bất minh” ở hành động của nhân vật.
Trong hài kịch, các thủ thuật gây cười như thế vẫn được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, nếu không gắn với mâu thuẫn kịch có ý nghĩa xã hội, các thủ thuật này cũng chỉ dừng lại ở tác dụng mua vui thuần túy (giống như các tiểu phẩm hài tràn ngập hiện nay), chưa chạm tới giá trị thẩm mĩ mà tác phẩm hài kịch cần đạt được.
Tất cả hành động, ngôn ngữ của các nhân vật tập trung làm bật nổi mâu thuẫn cơ bản của đoạn trích: ông bà Đại Cát chấp nhận công tư hợp doanh theo chủ trương chung của nhà nước, nhưng lại tìm cách giấu của để làm vốn riêng. Đó cũng chính là biểu hiện của tính “khôn lõi”, “tháu cáy” - những từ ngữ buột ra từ chính miệng nhân vật. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ (vào giữa những năm 60 của thế kỉ trước), cách xử lí tài sản riêng của mình như ông bà Đại Cát là “đi ngược lại chủ trương”, biểu hiện của sự thiếu thành ý, thiếu tin tưởng vào nhà nước, ích kỷ, mang nặng tư tưởng thụ hưởng thụ cá nhân, phản tiến bộ, trở thành đối tượng đáng cười, đáng phê phán. Việc cất giấu của cải (vốn là quyền hiển nhiên của chủ sở hữu) lại được xem là hành động bất minh, bất hợp pháp, một cách tẩu tán tài sản lẽ ra không bao giờ được phép diễn ra. Đấy đích thực là “quẫn” theo tiêu chuẩn giá trị, theo cách đánh giá phổ biến của con người vào thời điểm đang diễn ra các sự kiện chính trị xã hội “động trời”. Mâu thuẫn cơ bản đó càng được đẩy lên đầy kịch tính khi chính nhân vật mặc nhiên tự nhận thấy tính bất minh, mờ ám, vô lí trong việc làm của mình. Đây là cơ sở để tác giả cường điệu hóa, sử dụng các thủ pháp gây cười (và thực sự đã làm bật ra tiếng cười ở khán giả) như đã phân tích ở trên. Bị cười giễu như vậy, nhân vật hài kịch ở đây dường như không hề cảm thấy oan ức chút nào. Dĩ nhiên, cũng như bất cứ vở hài kịch kinh điển nào khác, Quẫn có cái kết nhẹ nhàng, lạc quan: nhờ sự thuyết phục của con gái là Mỹ Trinh và người yêu (đại diện cho lớp người tích cực, tiến bộ), ông bà Đại Cát nhận ra mình đã bị “quẫn”, tự nguyện đưa hết của cải đã cất giấu góp vốn vào việc “hợp doanh” với nhà nước.
Trong văn học hiện đại Việt Nam, hài kịch và bi kịch đều không phải là thể loại phát triển mạnh. Điều này do nhiều nguyên nhân. Từ sau cách mạng tháng Tám, việc xây dựng xã hội mới cùng hai cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc đã đặt ra cho văn học nhiệm vụ đặc thù, với những yêu cầu thẩm mĩ riêng. Giữa bối cảnh đó, tiếng cười trở nên “lạc điệu” so với âm hưởng lãng mạn, sử thi bao trùm nền văn học. Nguyễn Công Hoan – một cây bút sở trường về truyện trào phúng một thời – đã thấy rõ quan điểm văn nghệ mới không có chỗ cho sự nảy sinh của tiếng cười. Những tác giả trào phúng có tên tuổi như Tú Mỡ, Đồ Phồn cũng không khỏi cảm thấy “chật chội” khi sáng tác. Trong bối cảnh đó, Quẫn của Lộng Chương được xem là một nỗ lực sáng tạo lớn lao, một thành công đáng ghi nhận của thể loại hài kịch (đoạn trích Giấu của là một minh chứng). Ngày nay, dựng lại vở Quẫn trên sân khấu, chắc chắn các đoàn kịch phải có cách xử lí nghệ thuật khác với thời điểm tác phẩm xuất hiện (1960) thì mới có thể “níu chân” khán giả. Cũng vậy, sự đánh giá giá trị của vở kịch của người xem bây giờ không còn giống ngày trước. Hiện nay, khi cả xã hội chúng ta đang được nhà nước khuyến khích làm giàu, khi Việt Nam đã có nhiểu ông chủ nổi tiếng giàu có, thậm chí có cả những tỉ phú đô-la góp mặt với thế giới, thì công chúng dường như đã có phản ứng rất khác khi xem vở hài kịch của Lộng Chương. Sau tiếng cười bất giác bật ra, khán giả có thể không khỏi giật mình. Quả vậy, hơn cả tiếng cười, vở kịch làm lộ ra nhiều điều đáng suy ngẫm về bức tranh thực tại của xã hội Việt Nam một thời kì. Dĩ nhiên, đó có thể là điều nằm ngoài chủ đích của tác giả khi viết vở kịch này.
Đặng Lưu