21-12-2020 - 07:21

Vẻ đẹp người lính “Bộ đội Cụ Hồ” trong thơ

Nhân kỷ niệm 76 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2020). Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu bài viết Vẻ đẹp người lính "Bộ đội Cụ Hồ" trong thơ của Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú

       Đất nước Việt Nam ta có một chiều dài lịch sử với bao cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm từ ngày dựng nước. Một đất nước mà nhà thơ Nam Hà đã viết: “Đất nước - Bốn ngàn năm không nghỉ - Những đạo quân song song cùng lịch sử - Đi suốt thời gian - Đi suốt không gian - Sừng sững dưới trời anh dũng kiên gan”.

       Có một đặc điểm khá riêng biệt là ở nước ta nhiều vị tướng lĩnh anh hùng dân tộc đều mang trong mình tâm hồn của một thi nhân văn võ song toàn. Ta vẫn còn nghe vang vọng lời hịch cũng chính là lời thơ gắn bó giữa người lính và tướng lĩnh trong “Bình Ngô Đại cáo” của Trần Hưng Đạo: “Ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc - Lớn lên gặp buổi gian nan… Sau khi thắng giặc ngoại xâm, thượng tướng Trần Quang Khải đã sảng khoái viết lên vần thơ mang chí phách hào hùng: “Chương Dương cướp giáo giặc - Hàm Tử bắt quân thù - Thái bình nên gắng sức - Non nước ấy ngàn thu”... Bác Hồ - Vị lãnh tụ kính yêu, vị tổng tư lệnh tối cao lên đài quan sát mặt trận Đông Khê và đã viết những dòng thơ tô đậm sức mạnh với khí thế quyết chiến quyết thắng: “Chống gậy lên non xem trận địa - Vạn trùng núi đá vạn trùng mây - Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu - Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”. Thật lạ, đọc lại thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp thấy rất nhiều bài thơ hay sinh động viết về sự thiết thốn vật chất trang bị của người lính nhưng lại vô cùng lạc quan, thân thiện và mộc mạc. Nhà thơ Tố Hữu ngày ấy cũng đầu quân vào bộ đội, cũng ba lô trên vai trong bài thơ “Cá nước” khi gặp anh bộ đội vượt đèo Nhe đã khắc họa ấm nồng biết bao: “Giọt giọt mồ hôi rơi - Trên má anh vàng nghệ - Anh Vệ quốc quân ơi -Sao mà yêu anh thế”. Họ đã tự giới thiệu mình thật hồn nhiên và tự hào: “Quê hương anh nước mặn đồng chua - Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá - Anh với tôi đôi người xa lạ - Từ phương trời chặng hẹn quen nhau - Súng bên súng - Đầu sát bên đầu - Đêm rét chung chăn thành đôi tri k” (Chính Hữu). Trong kháng chiến chống Mỹ nhà thơ Hữu Thỉnh có tứ thơ phát hiện khá hay về “Năm anh em trên một chiếc xe tăng - Như năm ngón tay trên một bàn tay - Đã ra trận là năm người như mộtvà khi sáp mặt với quân thù thì: “Một ý chí bay qua đầu ngọn súng - Một niềm tin nghiến nát quân thù. Tôi nghĩ có lẽ đây làm một trong tượng đài đẹp nhất sinh động và ấn tượng nhất về tình đồng chí đồng đội. Lãng mạn và bay bỗng biết bao khi người lính thi sĩ Nguyễn Duy đã ví mái tăng là “Bầu trời vuông”“Sục sôi bom lửa chiến trường - Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng”. Chỉ có những người lính với tinh thần lạc quan vượt lên bao hiểm nguy ác liệt trong thơ Phạm Tiến Duật mới tinh tế nhận ra rằng: “Thế đấy ở chiến trường - Nghe tiếng bom rất nhỏ” Và những người lính xe vận tải trên đường Trường Sơn mới có cái tư thế: “Không có kính rồi không có đèn - Không có mui xe thùng xe có xước - Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước - Chỉ cần trong xe có một trái tim …”

Tuần tra bảo vệ thác Vũ Môn - Ảnh: Phạm Chiến

       Có một mảng thơ khá đặc sắc và phong phú khi viết về người lính đó là thơ tình yêu: tình yêu lứa đôi của người chiến sỹ gắn với tình yêu đất nước. Đó là vẻ đẹp bình dị và cao cả của tình yêu riêng tư gắn với lý tưởng thiêng liêng cao đẹp. Bài thơ “Nhớ” của Nguyễn Đình Thi là nỗi nhớ tâm tình muôn thủa nhưng được đặt trong khung cảnh chiến tranh với tâm thế lớn lao với bao khát khao cháy bỏng bao nỗi niềm chan chứa: “Anh yêu em như yêu đất nước - Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần. Người yêu - Em được trang trọng đặt ngang hàng đất nước để “Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời.  Lại có những người lính xuất thân từ nông thôn bình dị mà lạc quan trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Đắng nớ vợ chưa - Đằng nớ! Tớ còn chờ độc lập - Cả lũ cười vang bên ruộng bắp - Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu”. Tình yêu của người lính biển của nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bắt được nhuần nhị cái tứ - Biển một bên và em một bên. Biển chính là hiện thân một phần máu thịt đất nước. Biển là nơi những người lính đang ngày đêm canh phòng bảo vệ trọn vẹn đảo tiền tiêu. Em là một phần máu thịt của đất liền của hậu phương thân yêu và: “Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên - Bão thổi chưa ngưng trong những vành tang trắng - Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng - Biển một bên và em một bên”. Nhân lên từ tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước cao cả là những xao xuyến rất nhỏ và ngân rung lay động như “Trên đồi chốt nghe chim hót” cùa nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm: “Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng - Nghe lăn tăn những tiếng chim xuống hầm”.  

       Người lính ra trận ai chẳng có những cuộc chia tay: “Con ra tiền tuyến xa xôi - Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền” (Tố Hữu). Có những cuộc chia ly trên cánh đồng lúa trong thơ Trần Hữu Thung: “Em tiễn anh lên đường - Chiếc xách mây anh mang - Em nách mo cơm nếp - Lúa níu anh trật dép”. Chỉ một hình ảnh khá cụ thể và chọn lọc tiêu biểu: “Lúa níu anh trật dép” đã hàm chứa bao yêu thương gắn bó tâm tình gửi gắm tin cậy với người ra trận. Và còn có cả cuộc “Chia ly màu đỏ” khá lý tưởng của nhà thơ Nguyễn Mỹ: “Đó là cuộc chia ly chói người sắc đỏ - Tươi như cánh Nhạn Lai Hồng”. Một vẻ đẹp tươi sáng và nồng ấm của những gam màu thiên nhiên, của nắng, của hoa và màu áo đỏ của người yêu. Một tứ thơ độc đáo với sắc thơ ngời ngời sức sống, với cái màu đỏ đã theo anh đi suốt dọc chiến trường như thắp lửa trong tim ánh lên bao khát vọng: “Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy - Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi - trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người - Sẽ là ánh lửa hồng trong đêm gió rét - Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi - Như không hề có một cuộc chia ly”. Đúng vậy, có thể chia ly cách xa về địa lý về không gian nhưng không thể chia ly về khát khao lý tưởng niềm tin vào ngày chiến thắng và khi thắng trận trở về trong niềm hân hoan chào đón: “Anh về cối lại vang rừng - Chim reo trên mái gà mừng dưới sân - Anh về sáo lại ái ân - Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca” (Tố Hữu). Chính anh đã giữ bình yên cuộc sống đã truyền thêm sức sống cho thiên nhiên cảnh vật con người. Đó cũng chính là một trong những cắt nghĩa về sức mạnh tinh thần lớn lao của người lính Việt Nam của anh “Bộ đội Cụ Hồ”.

       Viết đến đây tôi bỗng nhớ bức tranh sơn dầu “Chiều Tây Bắc” tuyệt đẹp của họa sỹ Phan Kế An vẽ đoàn quân giữa bao la núi trời mây chập chùng Tây Bắc đã tạo nên dáng hình rất thơ mộng như thơ Tố Hữu đã viết "Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều - Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo - Núi không đề nổi vai vươn tới - Lá ngụy trang reo với gió đèo”. Những người lính đã tạc nên Dáng đứng Việt Nam trên đường băng Tân Sơn Nhất một tượng đài sống vĩnh cửu trong lịch sử dân tộc lại là người lính “Đầu súng trăng treo”. Chiến tranh và khát vọng hòa bình, người lính và tình yêu đất nước cứ hòa quyện vào nhau khi “Tên anh đã thành tên đất nước”

N.N.P

. . . . .
Loading the player...