Kỷ niệm 76 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12-2020), Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu chùm thơ của các tác giả về đề tài Tổ quốc, biển đảo và người lính được đăng trên Tạp chí Hồng Lĩnh số tháng 12/2020.
TRẦN THỊ KIM HOA
BÊN BIỂN
Sắt son màu trời
thủy chung màu đất
vai cha rớm máu, áo mẹ bạc sờn
những sải tay gừng cay muối mặn
tre trúc cũng vùng lên đuổi giặc
sóng kình ngư cuộn đỏ Bạch Đằng Giang
biên ải ngàn năm máu xối
đất nước hình hài thế trận
vách núi dựng hình khiên nỏ binh đao
đáy biển chôn những mái chèo gãy nát
sóng cả hải đăng không chớp mắt
mỗi cánh rừng ngã xuống, một thành lũy dựng lên
trái tim nơi đầu sóng
phập phồng nhịp đập trùng khơi
ngọn phong ba giữa bốn bề sóng đánh
những chiếc mỏ neo dầm mình bám biển
những ngón tay trên bàn tay Tổ quốc
mỗi mỏm đá, gốc san hô nổi chìm đều bờ cõi thiêng liêng
cửa ô cuồn cuộn sắc cờ
buồm căng gió lộng khơi xa
tên nỏ của Cha chưa một ngày chùng dây trên vách liếp
lưới Mẹ đan hoài chưa một phút ngơi tay
ngõ trước nhà xuân sang rồi hè tới
những đứa con sau trận mạc mãi chưa về…
THANH GƯƠM VÀ DẢI LỤA
Nước và lửa
và rừng lim
những cọc gỗ hiên ngang
những nghìn năm sóng dựng
đất một lòng phên dậu
người nhất nhất thủy chung
tiếng ngàn xưa vang vọng
mỗi nhịp triều Thủy Nguyên...
4000 năm bên biển nghiêng nghiêng
chuỗi vòng đá Tràng Kênh
phập phồng ngực núi
người lên ngựa
kẻ xuống thuyền
hết trận mạc lại nhen lò luyện mới
chàng trai năm xưa ra trận
mẹ già ở lại Thủy Đường
Nội quốc công Thượng đẳng phúc thần
ngã xuống chưa một ngày làm phò mã
bao thế kỷ trôi qua
vẫn đau đáu bên trời ước hẹn hồng nhan
Bạch Đằng Giang sử sách
giờ hiền như câu thơ
cô gái làng chài khoe má hồng môi thắm
chàng trai Lập Lễ lên thuyền ra khơi
mây trắng cuộn đỉnh Hoàng Tôn
câu hát đúm đung đưa
dải lụa mềm ngã ba sông
Phượng Hoàng thanh gươm sáng…
Ảnh: Văn Bảy
DUY THẢO
GỬI BẠN LÍNH
Chuyến tàu đêm rú còi ra phía bắc
Bỏ nhà ga nuối tiếc khách tốc hành
Nhận ra bạn trong gió mùa lạnh buốt
Ấm tiếng cười của một thuở chiến binh
Một thuở hành quân bạt đồi đẩy pháo
Lối ngược xuôi biết mấy nẻo đường
Những tên phố Thắng, Vôi, Kép, Chủ
Những tên cầu Gia Bảy, Gia Lương...
Những làng quê vào ra không nhớ hết
Nay Lai Vu, mai bến Bính, Phà Ròn
Bỏ bữa ăn đánh giặc trời không mỏi
Chỉ khát thèm một giấc ngủ thật ngon
Nghe bạn kể: - “Từ ngày rời quân ngũ
Trở về quê yêu hạt lúa, củ khoai
Đứa con đầu lại nối đời binh nghiệp
Mình thiệt thòi không giàu được như ai
Được cái vui là tình làng nghĩa xóm
Chăm vết thương lúc trái gió trở trời
Vẫn chịu tiếng thẳng thừng hay gây sự
Khi đời còn chuyện ngang trái chưa thôi”
Bạn chia tay xuống ga về Thiệu Hoá
Túi hành trang bì xác rắn vắt vai
Tàu chuyển bánh chở khách ra phía trước
Cho lòng tôi quay lại một thời
Một thời lính đi qua là vậy đó
Sau chiến tranh bao chuyện cứ như đùa
Tấm huân chương lúc nghèo không bán nổi
Nhưng kẻ giàu đâu đã dễ dàng mua.
TRƯƠNG NGỌC ÁNH
VẪY ĐẠI NGÀN
(Kính anh linh cụ Phan Đình Phùng và nghĩa sỹ)
Vẫy tay từ tạ đại ngàn
Ngổn ngang mây núi vô vàn hoang sơ
Ráng chiều chín một giấc mơ
Bao nhiêu sương khói vỗ bờ sóng giăng
Thôi xin chào nhé Kim Quang
Ta về với mảnh trăng ngàn vắt vai
Nửa trăng xin gửi núi cài
Hỗn mang hồn đá đứng ngồi Ngàn Sâu
Biết là nối ruột cho nhau
Nên chi đá nặng trĩu đầu khăn sương
Hình như còn vệt mài gươm
Màu rêu ngân ngấn còn vương máu thù
Mười năm huyết hận nhuộm cờ
Thấm vào ruột đá đến giờ còn đau
Những hồn thiêng gửi nơi đâu
Chập chờn nhân ảnh trên cầu ai qua..
Tôi đi tìm lại ngày xưa
Chỉ còn bóng núi dội bờ thác reo
Đại ngàn đang buổi cô liêu
Thôi đành vác cả bóng chiều về xuôi...
BÙI QUANG THANH
LỜI RU ĐỒNG ĐỘI
Ngủ đi giấc ngủ ngàn xưa
Lời ru nhè nhẹ. Rừng dừa gió xao
Trập trùng lũng thấp đồi cao
Qua truông có nhớ ngày nào vượt truông
Chẳng còn đạn dập bom dồn
Xin đừngmộng mị cho hồn thảnh thơi
Ngủ đi! Nào, ngủ - à ơi…
Ngọt ngào là tiếng ru hời mẹ xưa
Rừng chiều nổi gió tiễn đưa
Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về
Bao năm đá gối đất kề
Mưa đông xối cỏ, nắng hè khét xương
Giờ ai hương lạnh sa trường
Mà ai giã bạn trên đường tìm quê?
Rừng sâu dây níu bốn bề
Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng…
Bao năm bóng xế trăng chùng
Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu
Rễ cây thay tóc trên đầu
Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn
Hai thằng hai nửa tấm tăng
Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau
Chiến trường chuyển hướng về đâu
Đếm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ
Khói hương hun hút đợi chờ
Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong
Nhặt thưa tiếng súng xa gần
Nín câm đợi tiếng bước chân bạn bè.
Ngủ đi! Nào ngủ - Đường về
Cây reo, suối hát, bộn bề lúa thơm
Ríu hồn cọng rạ dây rơm
Mo cau ngày ấy nắm rơm mẹ nghèo…
Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo
Giật mình thảng tiếng bạn kêu cuối rừng.
BÙI VIỆT PHƯƠNG
BIÊN THÙY
Một tà áo bạt đi mùi thuốc súng
Cây lên xanh nhận đất giữ biên thùy,
Mâm cơm vội, bản nghèo, tên khó đọc
Gắp vội tiếng gà vào bát khách đường xa.
Hai mươi tuổi, em sinh sau trận mạc
Hái một nhành hoa có nhớ vết tăng cày?
Hai mươi tuổi, có người xuyên lửa đạn
Đi hết cánh rừng mận trắng để thành mây.
Người miền núi biết rủ cây gùi bắp
Cùng tiếng chim leo dốc kiếm thuốc lành,
Nhặt nhạnh nắng dệt chăn phà mềm mại
Nhường thú nước nguồn, mượn lá những đôi tai.
Người giữ đất từ nhẹ tay nhổ cải
Đến mài dao sôi máu thép cha truyền,
Lưỡi dao ngắn, bàn chân bè, áo vải
Chụm lưng thành bất khuất dãy Hoàng Liên.
Hôm nay sông chảy cho ngày sau nữa
Để đôi bờ kịp đến với mùa xuân,
Em đã tới, áo choàng cho lũ trẻ
Ấm áp vừa chia, ấm áp lại quây quần.
Thế là chẳng gặp nhau chiều biên viễn
Gió rừng đêm kể vợi củi biên phòng,
“Cô gái ấy lần nào lên cũng vội
Giúp đỡ mọi người, mà... có ý đợi anh”.
Và có lẽ bao giờ cũng thế
Đi dọc tuổi xuân sẽ gặp biên thùy,
Tình yêu ấy làm ta không nhỏ bé
Cọng cỏ già kể mãi bước quân đi...
11/8/2020
Ảnh: Văn Bảy
VÕ MINH CHÂU
KÝ ỨC HỌC TRÒ
(Tặng Hồ Đông Kháng)
Ngược nẻo chiến trường xưa
Mang đồng đội trên lưng giã từ biên ải
Đường chinh chiến nửa đời ngoái lại
Vẫn trập trùng ngàn lau trắng phất phơ.
Chớp mắt qua thời ấu thơ
Lại chớp mắt qua thời son trẻ
Bao ước vọng vẫn còn giang dở
Sao vội vàng chi rứa… vội vàng ơi !
Áo em hồng phơn phớt tím chân mây
Tóc mẹ bạc trắng ngỡ ngàng trước ngõ
Anh kĩu kịt hai đầu duyên nợ
Bến sông chiều ngược gió. Lỡ đò ngang.
Anh trở về với muôn việc lo toan
Một đời ngủ chẳng bao giờ yên giấc
Thương bè bạn nắm xương nằm dưới đất
Giữa đại ngàn nắng gió tuyết sương.
Tuổi bảy mươi không thể lại lên đường
Luôn tìm bạn trong mơ thành vô vọng
Đêm tỉnh dậy một mình ngồi lẩm nhẩm
Những câu thơ ký ức tuổi học trò.
Tháng 12/2020
TRẦN ĐĂNG ĐÀN
THƯƠNG MỘT MÀU HOA
Có một thuở sao mà tinh khiết thế
Trao cho nhau chỉ một đoá trúc đào
Tôi vào lính - ngày chia ly em khóc
Hẹn suốt đời không thể chết tình yêu.
Hết giặc tôi về mang vết thương đau
Em đã đi lấy chồng nơi xứ lạ
Tôi chẳng trách em - chiến trường nghiệt ngã
Bạn bè ta biết bao đứa không về...
Tôi đi tìm em - chẳng gặp lại bao giờ
Chỉ day dứt một nỗi niềm bé nhỏ
Màu hoa ấy bây giờ còn thắm nữa
Hương còn bay thơm ngát giữa trời chiều?...
VŨ TUẤN ANH
LÍNH TRƯỜNG SA HÁT QUAN HỌ
Giữa quần đảo Trường Sa
Lặng người nghe lính hát
Câu quan họ í a
Sóng biển xa dào dạt
Trẻ hơn đóng liền chị
Hát đối cùng liền anh
Nón quai thao tròng trành
Mắt lúng la lúng liếng
Cũng miếng trầu cánh phượng
Têm từ lá bàng vuông
Têm từ bao nhớ thương
Gửi đất liền xa thẳm
Người ơi! Xa nhớ lắm
Dùng dằng mãi không buông
Người ơi! Muôn trùng sóng
Chí trai vẫn can trường
Quan họ luôn ở lại
Dù mai người có xa
Quan họ cùng lính đảo
Giữ vẹn nguyên biển nhà
CHUYỆN NGƯỜI CỰU BINH
Một cánh tay đã để lại chiến trường
Còn lại bàn tay bị đạn găm thuở trước
Ông lặng lẽ bón cơm ăn cho đứa con đã ba mươi tuổi
Hy vọng trời thương... mong mỏi cuối cùng...
Trong căn nhà cũ kỹ tuyềnh toàng
Cậu con trai vô hồn nhìn mẹ cha như người xa lạ
Và cô gái bò quanh sân như đứa trẻ mới sinh
Đã qua bao năm chiến chinh
Ông vẫn chờ đợi đoàn viên
Vẫn mong ngày hạnh phúc
Ông khát khao những đứa con biết gọi tiếng mẹ cha
Chia niềm vui, đỡ đần trong bóng xế chiều tà
Mong phép màu bất ngờ khi ông bà về đất mẹ
Những đứa trẻ kia biết tự lo cuộc sống cho mình...
Chiều chiều
Tôi vẫn gặp người lính cựu binh
Hy vọng bình minh và phép màu xuất hiện
Khi bón cho những đứa con ăn bằng bàn tay thương tật.