26-06-2023 - 23:12

Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Đức Ban

Văn nghệ Hà Tĩnh trân trọng giới thiệu bài viết “Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Đức Ban” của Hoàng Văn Thanh

…Việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ phổ thông với phương ngữ trong sáng tác văn học có một vai trò không nhỏ, nó tạo ra những giá trị có tính hình tượng lớn hơn một đơn vị ngôn ngữ (từ, câu, đoạn văn...), giúp nhà văn truyền tải được những chủ ý nghệ thuật một cách hiệu quả nhất tới người đọc. Đồng thời đây cũng là nguồn bổ sung quan trọng và làm phong phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ toàn dân. Có thể thấy trong các truyện ngắn của Đức Ban, phương ngữ được tác giả sử dụng không nhiều, mật độ không dày đặc như ở một số tác phẩm của một số tác giả khác, nhưng qua khảo sát phần nào cho thấy, các phương ngữ mang âm hưởng của miền Trung đã được tác giả chọn lọc và vận dụng với ngôn ngữ phổ thông trong các tình huống truyện là khá tinh tế và phát huy tối đa hiêu quả. Nhà văn đã thể hiện ý thức tìm tòi, sáng tạo từ ngữ, đặc biệt là một số từ láy như: xõa xượi, lăm răm, đùi đụi, khuềnh khoàng, loạp roạp, rí rách, tung tinh, tốc tác, chuầy chòa... Mật độ các phương ngữ cũng xuất hiện nhiều hơn ở các truyện nói về đề tài nông thôn như; Khúc hát ngày xưa, Ngôi sao hôm leo lét, Hoa bần, Mắt giếng, Miếu làng... Ngôn ngữ địa phương được đặt vào trong lời nói của chính các nhân vật trong những ngữ cảnh cụ thể, phần nào đã thể hiện được tính cách nhân vật đặc trưng cho vùng, miền, mà nét nổi bật của việc tác giả lựa chọn, kết hợp ngôn ngữ phổ thông với phương ngữ qua các truyện ngắn là con người miền Trung với sự cần cù, chịu khó, thật thà, chất phác, giàu lòng  vị tha... được bộc lộ qua chính ngôn ngữ giao tiếp của nhân vật trong truyện. Với Đức Ban, ngay từ những tác phẩm đầu tiên được in trong tập truyện ngắn “Mưa rừng” (1978) đã bộc lộ một sự đa dạng, nhiều sắc thái (đa thanh) về giọng điệu, góp phần đưa đến cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ, cách hiểu, cách nghĩ khác nhau về cùng một nhân vật, tình tiết, nội dung của một câu chuyện… Văn Đức Ban là một dấu nối giữa quy phạm và tự do, nó không đơn điệu mà sinh động giàu âm hưởng đời sống - nhịp điệu nhanh chậm, độ ngắn dài cũng như hình ảnh, từ ngữ rất gợi cảm được thể hiện cụ thể ngay trong mỗi lời văn, câu văn và đoạn văn.

Với tìm hiểu, phân tích về giới thuyết khái niệm giọng điệu và vai trò của giọng điệu; qua khảo sát truyện ngắn và một số truyện vừa của Đức Ban, chúng tôi thấy nổi lên trong các sáng tác của nhà văn các sắc thái giọng điệu chính như: giọng khách quan, giọng hoài nghi mang tính chất vấn, giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh.

1. Với đặc điểm chất giọng trầm tĩnh, khách quan đã được Đức Ban thể hiện xuyên suốt trong hầu hết các sáng tác của mình.Có một đôi chỗ, hình như không kìm được khi nói về cái ác thắng thế, tác giả có tham gia bình luận. Nhưng không nhiều. Hầu hết nội dung các câu chuyện được tác giả kể hết sức khách quan bằng việc bóc tách từng lớp một để đi tới tìm hiểu, khám phá, chỉ ra bản chất của cái ác trong đời sống, do vậy tính thuyết phục của câu chuyện là rất cao. Tiêu biểu là truyện vừa “Suối chảy trong rừng”, bằng lối viết dung dị và được thể hiện qua cách kể hết sức khách quan với các tình tiết, diến biến… đã làm nổi bật tính triết lý hết sức sâu sắc của câu chuyện. Với lối kể đó đã làm nổi bật được các nhân vật được thể hiện trong truyện, đó là sự độc ác của một trưởng phòng bưu điện Kỳ xuất thân từ anh làng chài “thi trật đại học”, “đen tối trong bụng dạ” ngay cả đối với cha đẻ của mình, một thanh niên hư hỏng mang nặng thù oán như Trín… Bên cạnh đó là sự mát lành, trong trẻo, nhân hậu, tràn đầy lòng yêu thương con người như “suối chảy giữa rừng” của bố con lão May, người dân tộc Ơ - Đu…; tính triết lý về lòng yêu thương con người như “suối chảy giữa rừng” không bao giờ cạn, nó như là một biểu hiện về “bản tính thiện” đã có trong máu của những con người vô tư này; là ý nghĩa nhân văn hết sức sâu sắc mà nhà văn muốn thể hiện, chuyển tải qua giọng kể khách quan của câu chuyện là “không bao giờ cuộc đời này hết những người tốt, cho dù đấy chỉ là một nơi xó xỉnh giữa rừng sâu thoạt nhìn chỉ có núi rừng hoang dã!”.

Ở một câu chuyện khác, cũng với giọng kể hết sức khách quan, nhiều lúc còn có phần dửng dưng, lạnh lùng và tàn nhẫn trước số phận của nhân vật trong tác phẩm. Đó chính là toàn bộ diễn biến, tình tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật Cô Nhi trong truyện vừa “Cô Nhi nhỏ bé”. Nhân vật Cô Nhi trong câu chuyện đã dám thách thức với số phận mình, vượt qua những dị nghị, thành kiến về giai cấp dám dũng cảm từ bỏ hạnh phúc của mình - cái hạnh phúc mà người yêu của cô đưa ra đánh cược. Rồi cũng chính Cô Nhi tự phấn đấu trở thành nhà báo và dám vạch mặt những kẻ nhân danh “làm ăn lớn”, nhân danh cách mạng với tinh thần “mo cơm, quả cà, tấm lòng cộng sản”, di dân lên núi để “sắp xếp lại giang sơn” theo “ý chí” của một vài cá nhân, bất chấp tính mạng của nhân dân.

Giọng kể khách quan của tác giả còn được thể hiện khá dày đặc trong seri truyện ngắn của mình. Chúng ta dễ dàng bắt gặp lời kể hết sức khách quan, có phần vô cảm của nhân vật tôi trong truyện Cô Tề làng tôi “Cô Tề về làng sau hơn bốn chục năm. Cô về làng một mình lặng lẽ. Theo sau cô là một chiếc xe ngựa… Dân làng từ trong các lối ngõ ùa ra, kéo đến thăm cô. Có ai đó đã mở cửa ngôi nhà xây tường lợp ngói bỏ hoang từ ngày cha cô mất… Trong đám đông dân làng có tiếng thở dài nghe thật buồn. Có lẽ đó là nỗi buồn cho một  thần tượng bị sụp đổ…” ; hay lời kể khách quan đến mức lạnh lùng qua đoạn hội thoại của nhân vật Bí thư, chủ tịch xã và Cô Bờ của một nhân vật giấu tên trong truyện Người đàn bà choàng khăn: “Bí thư xã nói: - Chúng tôi sẽ cấp cho chị một suất đất tử tế, sẽ dựng cho chị một ngôi nhà tử tế chừng 10 mét vuông. Một mình chị cần gì nhà to, rộng. Hí! Chủ tịch xã nói: - Một thân một mình, ở nhà rộng thêm lạnh lùng, cô Bờ hé! Chồng con thì không… - Chồng con thì không có. Ông muốn nói vậy chứ, gì… Nhìn tôi đây này! Nhìn kỹ vào. Sẹo vì câu vương hồi xưa, giờ có thêm vết bỏng vì bom Mỹ nữa đây này! Nhìn đi. Nhìn mà nhớ lấy. Các ông im đi! Đừng bàn bạc chi nữa. Cho các ông cả, tất cả đó .

2. Với chất giọng hoài nghi mang tính chất vấn là một sự bổ sung đáng kể nhất, góp phần bổ sung cho sự phong phú và đa dạng về mặt giọng điệu của văn Đức Ban. Nếu trong khoa học, sự hoài nghi là động lực để phát triển, thì trong nghệ thuật, sự hoài nghi sẽ phù hợp với tinh thần “luôn luôn có sự nhận thức lại, đánh giá lại mọi thứ” (M.Bakhtin). Có thể về mặt nào đó hay ở một khía cạnh nhất định, giọng hoài nghi là sự khúc xạ tâm lý thất vọng, là “âm vang của một khủng hoảng xã hội”, nhưng cái đáng chú ý hơn từ góc độ nghệ thuật trần thuật là nó gắn liền với hình ảnh của một người kể chuyện “không biết hết”, không muốn đứng cao hơn bạn đọc.Với giọng hoài nghi mang tính chất vấn đã xuất hiện khá nhiều trong các sáng tác của ông. Trong đó khá đậm là ở thể loại truyện ngắn, chúng ta dễ bắt gặp những dòng ký ức về hiện thực cuộc sống sau chiến tranh của hình ảnh một Cô Tề trong truyện ngắn Cô Tề làng tôi “… Hàng ngày Cô Tề đi họp, hoặc đi nói chuyện đánh Mỹ… Một thời gian như thế. Rồi người ta nhận ra ký ức chiến tranh buồn nhiều hơn vui; vả, hiện tại còn bao nhiêu lo lắng cho cái ăn, cái mặc. Cô Tề cúng thấy chán chính mình… cô giật mình sờ lên khuôn mặt đã hằn đầy vết nhăn của mình. Cô nghĩ sẽ không lấy chồng nữa… Cô Tề nhìn thẳng vào mắt ông Phó Ty. Sự mãn nguyện lộ liếu trong mắt ông ta làm cô choáng váng; lúc ấy một ý nghĩ chua xót chợt đên với cô: sự tồi tệ trong con người ông ta từ bao giờ? Ông Nghi như không quan tâm tới những điều mình nói. Ông lặng lẽ ra về” Với giọng hoài nghi mang tính chất vấn đã làm cho người đọc phải trăn trở, suy nghĩ cho một thực cảnh, một hình ảnh đối lập của một vị anh hùng trong chiến tranh và giữa đời thường. Đó là những vấn đề hiện thực của nhân sinh, của xã hội mà một trong số chúng ta, ở thời điểm hiện tại không dễ dàng cắt nghĩa hay lý giải một cách ngọn ngành. Hay hình ảnh hai người đàn bà trong truyện ngắn Mồng mười tháng tám “… Họ cùng tuổi, cùng đi thanh niên xung phong, cùng làm công nhân di tu bảo dưỡng đường và cùng chưa chồng. Kỹ hơn cái quá khứ của họ ở trong ba tờ báo in thuở chiến tranh đã úa vàng nằm tại thư viện tỉnh và trong ký ức của người cùng thời với họ. Mà những người ấy nay ở thị xã tôi thì ít ỏi lắm…”Cô Bờ trong truyện ngắn Người đàn bà choàng khăn “… Anh còn hỏi để làm gì ư? - Bờ trút một hơi thở dài, giọng chùng xuống - tiểu đội sáu người chết ba, còn ba. Hoà bình, những ai ở rừng đều ào xuống đồng bằng, xuống thành phố… Trung đoàn bộ các anh kéo đi lúc nửa đêm về sáng, quên mất chúng tôi… Một tháng rồi một năm; không ai đến. Một mình tôi giữa với rừng với núi, với nghĩa trang trung đoàn… Tôi bỏ tất cả lại cho họ chạy khỏi hang, ra khỏi rừng, không giấy tờ, không hành lý, không đơn vị…”; hay lời của nhân vật Ông lão chữa khoá trong truyện Chuyện quanh quán cây dừa “… Chao ôi, con người thời nay sâu sắc lắm, nhiều mưu ma, chước quỷ lắm, khó hiểu lắm…”“… Cuối cùng người ta đỗ mọi tội lỗi lên đầu cô ấy. Từ quan hệ nam nữ bất chính đến gây mất đoàn kết nội bộ, đến xúc phạm đồng chí mình, đến không tôn trọng lãnh đạo. Không ai bênh vực cô ấy. Ở đời có những chuyện như vậy. Người ta vì cái lợi riêng cho mình mà bán sự thật cho quỷ...” hay nhân vật nàng trong truyện Đêm thức “... Không ai biết tên nàng là gì? Quê quán ra sao? Đã có chồng con chưa?... Giám đốc tôi bảo, nàng điên. Cậu bảo vệ nói, nàng là nhà văn ngồi suy ngẫm sự đời để đưa vào tiểu thuyết. Ông thợ sửa xe đạp bên kia đường phố bảo, nàng thất tình, vừa bị câm, vừa bị điếc...

3. Giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh Đức Ban bằng sự chiêm nghiệm, từng trải của bản thân, nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình những suy nghĩ, xem xét, đoán biết về con người, cuộc đời trước những số phận và sự bất trắc trong cuộc sống. Tùy theo vốn sống, sự hiểu biết, nguyên tắc ứng xử và điều kiện hoàn cảnh riêng ở từng thời điểm khác nhau mà nhà văn thể hiện giọng điệu về sự chiêm nghiệm ở những mức độ khác nhau: sự lý giải hiện tượng xã hội, có khi là sự khái quát mang tính triết lý…

Ngay trong Truyện Khúc hát ngày xưa, qua lời kể của nhân vật Nghĩa và lời tự sự của chính nhân vật Chị Nhàn trong câu chuyện đã bộc lộ khá rõ chất giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh, đó là sự trăn trở, sự giằng xé… trong nội tâm, ở góc khuất của mỗi cá nhân trước hiện thực cuộc sống mà không dễ nói ra sự thật. Đó là nỗi oan của anh Cường trước nghi án có “âm mưu” với con Thảo được thể hiện qua lời nhân vật Chị Nhàn: “Chú đừng nói thế. Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Cái bia miệng ở làng ta thì nó khiếp lắm.”. Hay qua lời nhân vật người kể Nghĩa: “Chị điên rồi. Chị tính bảo vệ danh dự cho một người đã chết. Người sống thì sao? Anh Thắng sẽ nghĩ gì về chuyện này? Anh ấy phải đi tù đã đủ đau lắm rồi, thế mà chị còn định giáng cho anh ấy một đòn nữa ư? Còn cháu Thảo nữa… Nghĩ lại đi, chị Nhàn, chuyện của 17 năm trước, xới lên làm gì. (…) Thâm tâm tôi giận chị. Lúc chị nói trước toà, trước đám đông rằng, con Thảo là con anh Cường. Anh ấy ôm con Thảo là cái ôm của tình máu mủ ruột rà… ” . Đó là sự chiêm nghiệm về tuổi thanh xuân của người con gái trước chiến tranh, trước thời gian được bộc lộ qua lời kể của nhân vật Tôi hay nhân vật Bà Lão trong truyện Mồng mười tháng tám “… Bà nghĩ, cô ta trạc tuổi bà năm bà bỏ làng ra ở riêng. Nếu không vì chiến tranh nó đã được làm mẹ; mẹ của hai, ba đứa con… Mươi năm nữa nó lại như mình ư? - Bà bỗng lo lắng mơ hồ (…) Ta nghĩ, đời người con gái như cái cây giá đậu xanh, nó mềm lắm, nó ngắn lắm, nó đáng thương lắm. Vậy nên ta mới làm thế.”. Hay sự đời éo le, nhiều bất trắc với những người lương thiện, muốn làm ăn chân chính nhưng rồi cứ vẫn phải vào tù mà không biết nguyên cớ từ đâu qua lời kể của nhân vật Khang - người lính bị thương và thất lạc trong chuyện Sông nước “… Tôi tính, hoà bình rồi, lính ta ở tràn khắp nơi, nhất định sẽ gặp được ai đó để xin ít tiền, nửa cho ông già mua ngựa - con vật ông ước cả đời - nửa dành về quê. Nhưng cả hai, ngựa và về quê theo tôi vào tù (…) Tôi say, đập phá cái gì đó; lúc tỉnh dậy đã thấy nằm trong đồn công an. Đấy là lần thứ hai tôi ở tù… Mà tôi có lỗi gì đâu.” Có khi đó là một sự chiêm nghiệm khắc khoải suy tư về nhân tình thế thái hết sức khách quan và sinh động của nhân vật Ông lão chữa khoá trong truyện Chuyện quanh quán cây dừa “… Tớ ngẫm, đời sinh ra đường đi cho con người trước khi sinh ra nó”, “… Tớ thương cô ấy còn vì cả tính bỉ tiện của tớ nữa, tớ đã không tự mình bảo vệ cô ấy mà đi mách với Nghiêm Hoàn…, Ở đời có những chuyện như vậy. Người ta vì cái lợi riêng cho mình mà bán sự thật cho quỷ… Đó là sự chiêm nghiệm, đúc kết cuộc đời của một con người trước sự đời của nhân vật Tôi trong truyện Sóng bến Duềnh “ … Tôi nhìn hắn ngồi ủ rủ bên mộ Ông và chợt nhớ có lần hắn triết lý rằng, đời sinh ra loại người như Ông thì phải có laọi người như hắn lại phải có loại người như cô áo đỏ. Bứu lấy nhau (…) mà đi. Rồi thì cuối cùng mỗi người có một nơi trở về. Ông đã về với Bến Duềnh rồi. Còn hắn? Còn cô áo đỏ? Còn bao nhiêu người nữa?” Chất giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh không chỉ được tác giả sử dụng ở một vài truyện mà nó còn được thể hiện gần như là dàn trải trong nhiều truyện như là một thủ pháp nghệ thuật, một phương tiện tối ưu để nhà văn thể hiện các dụng ý nghệ thuật của mình qua từng tác phẩm. Và cách vận dụng thủ pháp đó là hết sức linh hoạt và không trùng lặp giữa các truyện.

Cùng với giọng khách quan và giọng hoài nghi mang tính chất vấn, thì giọng suy tư, khắc khoải mang tính chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh là một trong những sắc điệu cơ bản góp phần tạo nên giọng điệu đa thanh trong truyện ngắn của Đức Ban nói riêng và trong các sáng tác của Đức Ban nói chung. ...

Với sự hoá thân vào nhân vật, trực tiếp quan sát, phân tích, bình phẩm, bộc lộ chính kiến của mình (trực tiếp hay gián tiếp) thông qua nhân vật của truyện, kết hợp linh hoạt, tài tình giữa giọng kể, tả bình… trong trần thuật nội dung câu chuyện, Đức Ban đã tái hiện được bức tranh hiện thực của đời sống hết sức sinh động, đa chiều từ diễn biến tâm trạng của nhân vật, ngoại hình, tính cách đến không gian, thời gian (bối cảnh của truyện)..., thực sự tạo nên một giọng văn đa thanh, nhiều màu sắc - mà điểm mấu chốt của nó là biết lảy ra từ những vấn đề nhỏ nhất trong cuộc sống. 

                                                                                                               2020

                                                                                                              H.V.T

. . . . .
Loading the player...